“Chấp nhận sự thật đi, Suze,” Cee Cee nói khi chén nửa phần bánh cannoli mà bọn tôi chia nhau vào ngày hôm sau, ở lễ hội của Cha Serra. “Bọn đàn ông chả ra gì đâu.”
“Hoàn toàn nhất trí,” tôi đáp.
“Mình nói thật đấy. Hoặc là cậu thích bọn họ và bọn họ không thích cậu, hoặc là họ thích cậu mà cậu lại chẳng thích họ – ”
“Chúc mừng cậu nhập hội,” tôi ủ dột nói.
“Ôi, thôi nào, cô nàng nói, có vẻ bị sững sờ trước giọng tôi. “Chuyện không thể tệ đến thế được.”
Tôi không có lòng dạ nào mà tranh cãi với cô ấy. Thứ nhất, tôi vừa mới qua khỏi một cơn đau đầu hậu-chuyển-dịch chưa đầy mười hai tiếng trước. Thứ hai, còn vấn đề nho nhỏ với Jesse. Tôi không có hứng nói chuyện về những tiến triển gần đây.
Đâu phải là tôi còn chưa có đủ rắc rối. Ví dụ như, mẹ và dượng tôi chẳng hạn. Bọn họ chưa đến mức quá muốn nổi máu sát nhân khi từ San Francisco trở về, phát hiện ra đống đổ nát từng là nhà mình… đấy là chưa nói đến giấy gọi của cảnh sát. Brad bị cấm túc đến hết đời, còn Jake thì bị tịch thu toàn bộ số tiền dành dụm mua xe Camaro để trả những khoản tiền phạt do bữa tiệc gây ra, vì tội dám đồng loã với kế hoạch tổ chức tiệc tùng – đấy là còn chưa nói đến tội cung cấp đồ uống có cồn nữa. Chỉ một điều duy nhất ngăn dượng Andy thật sự khỏi ra tay giết đứa nào trong hai đứa con trai lớn là David được an toàn ở nhà cậu bạn Todd trong suốt bữa tiệc. Nhưng dám nói là dượng ấy đang hoàn toàn nghĩ đến điều đó đấy… nhất là sau khi mẹ tôi thấy chuyện xảy ra với cái tủ đựng đồ sứ của mẹ.
Nói thế chả phải dượng Andy hay mẹ đặc biệt vui vẻ hài lòng gì với tôi đâu nhé – không phải vì họ biết cái tủ đồ sứ bị tan tành là do lỗi của tôi, mà là vì ngay từ đầu tôi đã không mách với họ kế hoạch của hai đứa anh em con dượng. Lẽ ra thì tôi đã rỉ tai về chuyện có kẻ hăm doạ tôi, nhưng thế thì họ sẽ biết rằng thằng Brad biết được điều gì đó ở tôi, một điều đáng để đem ra đe doạ dẫm.
Vậy là tôi không hé miệng, lấy làm vui vì lần đầu tiên tôi ít nhiều gì cũng vô tội. Ừm, trừ chuyện liên quan đến cái tủ đồ sứ – cho dù may quá, ngoài tôi ra không ai biết sự thật. Thế nhưng tôi hiểu mình không thể lẩn tránh trách nhiệm trong chuyện đó được. Tôi biết quá rõ là trong tương lai, số tiền kiếm được khi làm chân trông trẻ sẽ đi về đâu rồi.
Tôi tin chắc họ còn đang nghĩ đến chuyện cấm túc cả tôi nữa kia. Nhưng họ không thể không cho tôi tham dự lễ hội Cha Serra được, do tôi là thành viên trong hội học sinh nên xơ Ernestine sai tôi trông coi một bàn ở đó. Thế nên cuối cùng tôi mới phải đứng bán bánh cannoli cùng Cee Cee, người là tổng biên tập tờ báo trường cũng bị yêu cầu phải có mặt. Sau những hoạt động diễn ra vào đêm hôm trước – bạn biết đấy, vụ ẩu đả kinh khủng, chuyến du hành tới thế giới kia, rồi cả đêm ngồi nói chuyện và ăn biết bao nhiêu bỏng ngô và sôcôla – thì chẳng ai trong hai đứa ở trong tình trạng khoẻ khoắn nhất. Nhưng số người tham dự đông đến ngạc nhiên, những người chi một đôla cho mỗi chiếc cannoli ấy, họ lại chẳng hề để ý đến quầng thâm dưới mắt bọn tôi, có lẽ là vì cả hai đều đeo kính râm.
“Được rồi,” Cee Cee nói. Xơ Ernestine hơi bị dại dột khi sai Cee Cee và tôi cùng trông một cái bàn bán bánh tráng miệng, vì phần lớn số bánh mà lẽ ra chúng tôi phải bán thì lại chui tọt vào miệng cả hai đứa. Sau một đêm như đêm qua, bọn tôi có cảm giác như cần phải ăn đường ngọt. “Paul Slater.”
“Hắn thì sao?”
“Hắn thích cậu.“Chắc là vậy,” tôi nói.
“Chỉ có thế thôi á? Chắc là vậy?”
“Mình đã bảo với cậu rồi,” tôi nói. “Mình thích người khác.”
“Phải,” Cee Cee nói. “Jesse.”
“Phải,” tôi nói. “Jesse.”
“Cái người không đáp lại tình cảm của cậu?”
“Ừm… ừ.”
Cee Cee và tôi ngồi im lặng trong một phút. Xung quanh chúng tôi, tiếng nhạc hát rong vang lên. Ở chỗ đài phun nước, bọn trẻ con ăn piftata. Bức tượng Junipero Serra được trang hoàng với những vòng hoa. Có một chỗ bán xúc xích và hạt tiêu ngay cạnh chỗ bán bánh taco. Người Ý và người Latinh tham gia nhà thờ nhiều ngang nhau mà.
Đột ngột, Cee Cee nhìn tôi chăm chăm qua cặp kính đen và nói: “Jesse là một hồn ma, phải không?”
Tôi phát nghẹn món cannoli đang tiêu thụ. “Gì-gì cơ?” tôi hỏi, cứng cả lưỡi.
“Anh ta là một hồn ma,” Cee Cee nói. “Cậu không cần mất công chối cãi làm gì. Tối qua mình có ở đó mà, Suze. Mình đã nhìn thấy… ừm… mình thấy những chuyện không còn cách giải thích nào khác. Cậu nói với anh ta, nhưng ở đó làm gì có ai. Thế mà lại có người dìm đầu Paul xuống nước.”
Tôi lên tiếng, cảm thấy mặt mình đỏ như cà chua chín: “Cậu điên rồi.”
“Không,” Cee Cee nói. “Mình không điên. Giá mà được như thế thì đã tốt. Cậu biết mình ghét những chuyện kiểu thế lắm mà. Những chuyện không thể giải thích một cách khoa học. Và còn những kẻ dở hơi trên tivi cứ nói rằng họ có thể nói chuyện được với người chết nữa chứ. Nhưng mà – ” Một vị khách du lịch tiến đến, say vì cốc bia cực nhẹ mà người ta bán ở quầy của người Đức, say cả ánh mặt trời rực rỡ và không khí biển trong lành. Ông ta đặt xuống tờ một đôla. Cee Cee đưa cho ông ta một chiếc cannoli. Ông ta hỏi xin khăn giấy. Bọn tôi thấy cái hộp khăn giấy đã hết rồi. Cee Cee nói xin lỗi. Vị khách du lịch bật cười hiền lành, cầm chiếc cannoli, và bỏ đi.
“Nhưng sao?” tôi lo lắng hỏi.
“Nhưng chuyện có liên quan đến cậu thì mình sẵn sàng tin. Và một ngày nào đó,” cô ấy nói, cầm cái hộp khăn giấy rỗng lên, “cậu sẽ giải thích tất cả cho mình.
“Cee Cee,” tôi nói, cảm thấy trái tim mình trở lại với nhịp đập bình thường. “Hãy tin mình. Tốt hơn hết là cậu đừng nên biết gì cả.”
“Không,” Cee Cee nói, lắc đầu. “Không được. Mình ghét khi không biết mọi chuyện lắm.” Rồi cô ấy xóc chiếc hộp giấy rỗng. “Mình sẽ đi lấy giấy. Cậu ngồi một mình trong một lát được chứ?”
Tôi gật đầu, và cô ấy đi. Tôi không hiểu Cee Cee có biết cô ấy khiến cho tôi run đến thế nào hay không. Tôi ngồi đó, tự hỏi mình nên làm gì đây. Trên đời này chỉ có một người sống duy nhất biết được bí mật của tôi – tất nhiên ngoài Cha Dom và Paul ra – và hồi còn ở Brooklyn, Gina bạn thân nhất của tôi, cũng không biết toàn bộ mọi chuyện. Tôi chưa từng kể cho bất kỳ ai khác, bởi lẽ… bởi lẽ có ai chịu tin cơ chứ?
Nhưng Cee Cee thì tin. Cee Cee tự phát hiện ra, và cô ấy tin. Có lẽ, tôi thầm nghĩ. Có lẽ chuyện này cũng không điên rồ đến mức như tôi luôn nghĩ.
Tôi đang ngồi đó mà run, dù ngoài trời đang nắng, khoảng 240. Tôi đang đắm chìm trong suy tư đến mức chẳng hề nghe thấy tiếng người gọi tên tôi phía bên cạnh quầy hàng, cho đến khi người đó gọi tên tôi – hay cái tên gần đúng – ba lần liền.
Tôi ngẩng lên và thấy một thanh niên trẻ mặc bộ đồng phục xanh da trời nhạt đang khoe răng cười với tôi. “Susan phải không?” anh ta nói.
Tôi nhìn từ anh ta sang gương mặt của một ông lão ngồi trên chiếc xe lăn mà anh ta đang đẩy. Đó là ông nội của Paul Slater và y tá của ông ta. Tôi trấn tĩnh lại và đứng dậy.
“Ừm,” tôi nói. “Xin chào.” Nếu nói tôi cảm thấy hơi bối rối thì đúng là câu nói giảm nhẹ xếp hạng nhất của năm. “Hai người… hai người đang làm gì ở đây vậy? Tôi tưởng… tôi tưởng…”
“Cô tưởng cụ ấy chỉ biết ở trong nhà thôi chứ gì?” người y tá nhe răng cười, hỏi. “Không hẳn như thế đâu. Cụ Slater thích đi ra ngoài lắm. Đúng không, cụ Slater? Thực ra, cụ ấy còn nhất định đòi đến đây ngày hôm nay. Tôi thấy không thích hợp, cô biết đấy, cứ xem chuyện xảy ra với đứa cháu của ông ấy hôm qua thì biết, nhưng cậu Paul đang ở nhà, hồi phục nhiều, và cụ S nhất định muốn đi. Đúng không, cụ S?”
Ông nội của Paul làm một điều khiến tôi phải ngạc nhiên. Ông ta ngẩng lên nhìn người y tá và nói bằng một giọng hoàn toàn tỉnh táo: “Đi lấy cho ta một cốc bia.”
Ngá nhíu mày nhìn ông ta. “Kìa cụ S,” anh ta nói. “Cụ biết bác sỹ nói gì rồi đấy – ”
“Cứ làm đi,” ông Slater nói.
Với cái nhìn thích thú về phía tôi như muốn nói Còn biết làm gì nữa bây giờ?, anh ta đi đến quầy bán bia, để lại ông Slater ngồi lại một mình với tôi.
Tôi nhìn ông ta chằm chằm. Lần gần đây nhất tôi gặp thì ông ta đang nhễu nước miếng. Giờ thì không. Đúng là đôi mắt xanh của ông ta đã mờ. Nhưng tôi có cảm giác đôi mắt ấy còn thấy được rất nhiều điều đang diễn ra xung quanh chứ không chỉ biết xem Gia đình Feud phát lại.
Thực ra, khi ông ta nói ra câu này thì tôi tin chắc vào điều đó: “Nghe đây. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu. Ta đã hi vọng là cô có ở đây.”
Ông ta nói nhanh và khẽ. Thực ra, tôi còn phải rướn người về phía trước, qua cả bàn bán bánh cannoli, để nghe ông ta nói. Nhưng dù cho giọng ông ta có nhỏ, từng từ ông ta nói ra đều rõ mồn một.
“Cô là một trong số họ,” ông ta nói. “Một trong số những người chuyển dịch đó. Hãy tin ta, ta biết. Ta cũng là một người dịch chuyển.”
Tôi chớp mắt nhìn ông ta. “Ông… ông ư?”
“Đúng,” ông ta nói. “Và tên ta là Slaski chứ không phải Slater. Thằng con trai ngu độn của ta đã đổi tên. Không muốn người khác biết là nó có quan hệ với một lão già dở hơi đi khắp nơi nói với mọi người về khả năng qua lại thế giới của người đã chết.”
Tôi chỉ nhìn ông ta chằm chằm. Tôi không biết phải nói gì nữa. Có thể nói được gì đây? Điều này khiến tôi kinh ngạc còn hơn cả điều Cee Cee đã tiết lộ.
“Ta biết thằng cháu nội ta đã nói gì với cô,” ông Slater – Tiến sỹ Slaski – nói tiếp. “Đừng nghe nó. Nó hiểu sai mọi chuyện rồi. Đúng là cô có khả năng, nhưng nó sẽ giết chết cô. Có thể không phải ngay lập tức nhưng rồi cuối cùng sẽ là như thế.” Ông ta nhìn tôi chăm chăm từ gương mặt xám xịt, nhăn nheo lốm đốm đồi mồi. “Ta biết mình đang nói gì chứ. Giống như thằng cháu ngu dại, ta từng nghĩ mình là một vị thánh. Không, ta đã nghĩ ta là Chúa trời cơ.”
Tôi chớp mắt nhìn ông ta. “Nhưng mà – ”
“Đừng phạm phải sai lầm như ta, Susan. Cô hãy tránh xa nó ra. Tránh xa cái thế giới u tối đó ra.”
“Nhưng
Nhưng ông nội của Paul trông thấy người y tá tiến đến, và ông ta nhanh chóng quay trở lại trạng thái liệt bán thân, và không nói thêm gì nữa.
“Đây thưa cụ Slater,” người y tá nói, cẩn thận đưa chiếc cốc nhựa lên môi ông lão. “Ngon lành và mát lạnh.”
Tôi hoàn toàn không thể tin nổi, Tiến sỹ Slaski để cho bia chảy dài xuống cằm, lan ra khắp cái áo.
“Ối,” người y tá nói. “Xin lỗi. Ừm, chúng tôi nên đi lau rửa sạch sẽ thôi.” Anh ta nháy mắt với tôi. “Rất vui được gặp lại cô, Susan. Tạm biệt.”
Rồi anh ta đẩy xe của Tiến sỹ Slaski đi xa, về phía quầy bắn vịt.
Và thế là đủ lắm rồi. Tôi phải đi thôi. Không thể ngồi ở quầy bán cannoli này thêm một phút nào nữa. Tôi không biết Cee Cee đã biến đi đâu, nhưng cô ấy sẽ phải tự lo liệu chuyện bán bánh một lát. Tôi cần chút yên tĩnh.
Tôi ra khỏi quầy, sải bước qua đám đông trong sân mà chẳng để ý gì xung quanh hết, tiến đến chỗ cánh cửa mở rộng đầu tiên mà tôi gặp.
Tôi thấy mình ở trong khu nghĩa trang của hội truyền giáo. Tôi không quay lại. Nghĩa trang không khiến cho tôi sợ đến thế. Dù thật ngạc nhiên khi biết rằng bọn ma hầu như không bao giờ lang thang ở đấy cả. Ý tôi là gần mộ của chúng ấy mà. Bọn chúng thường hay đến những nơi chúng từng ở khi còn sống hơn. Nghĩa trang thực sự có thể là một nơi rất yên bình đối với một người làm cầu nối.
Hay là người dịch chuyển. Hoặc là bất kỳ thứ gì Paul Slater tin rằng con người tôi là như thế.
Paul Slater, một kẻ mà tôi bắt đầu nhận ra rằng hắn không chỉ đơn thuần là một đứa học lớp 11 giỏi lôi kéo người khác, cái đứa khiến cho thể xác tôi cảm thấy được sưởi ấm. Không, theo như chính lời ông nội của hắn nói, thì Paul Slater là… quỷ dữ.
Và tôi vừa mới bán linh hồn mình cho hắn.
Đó không phải là điều mà tôi có thể tiếp nhận một cách dễ dàng. Tôi cần thời gian để suy nghĩ, để quyết định xem mình sẽ phải làm gì tiếp theo.
Tôi bước vào nghĩa trang mát lạnh, nhiều bóng râm, và đi xuống một lối mòn nhỏ, lối đi mà đến lúc đó thực sự đã trở nên khá quen thuộc với tôi rồi. Tôi xuống đó rất nhiều lần. Thực ra, thỉnh thoảng khi mượn được giấy phép đi lại, vờ như tôi cần phải đi v sinh trong giờ học ấy mà, thì đây chính là nơi tôi đến, nghĩa trang của hội truyền giáo, xuống chính con đường này. Vì ở nơi cuối đường có đặt một thứ vô cùng quan trọng đối với tôi. Một thứ mà tôi quan tâm.
Nhưng lúc này, khi đến được cuối con đường đá nhỏ đó, tôi thấy không chỉ có mỗi tôi ở đây. Jesse đang đứng đó, nhìn xuống tấm bia mộ của chính mình.
Những con chữ anh ấy đang đọc tôi đều thuộc cả rồi, vì tôi cùng với Cha Dom là người chăm lo cho ngôi mộ đó mà.
Jesse ngẩng lên khi tôi tiến đến đứng bên anh ấy. Không nói gì, anh ấy lặng lẽ giơ tay qua tấm bia. Tôi luồn tay mình vào tay anh.
“Tôi xin lỗi,” anh ấy nói, cái nhìn trong đôi mắt nâu sẫm khó hiểu hơn bao giờ hết, “vì tất cả mọi chuyện.”
Tôi nhún vai, mắt vẫn dán xuống mặt đất chung quanh tấm bia – nó cũng sẫm màu như đôi mắt anh ấy vậy. “Chắc có lẽ tôi cũng có thể hiểu được.” Dù tôi chẳng hiểu gì cả. “Ý tôi là… anh không thể ép mình nếu… ừm… nếu tình cảm của anh không như tình cảm tôi dành cho anh.”
Tôi không biết điều gì khiến tôi nói ra như thế. Giây phút những lời ấy thốt ra khỏi miệng, tôi ước gì ngôi mộ bên dưới chúng tôi mở ra và nuốt luôn tôi đi.
Thế nên chắc bạn có thể hiểu được tôi ngạc nhiên vô cùng khi Jesse hỏi bằng một giọng tôi gần như không nhận ra đó là anh ấy, vì giọng nói ấy chan chứa cảm xúc dâng trào: “Đó là những gì em nghĩ sao? Rằng tôi muốn bỏ đi?”
“Không phải vậy ư?” tôi nhìn anh ấy chăm chăm, hoàn toàn chết sững. Tôi đang cố gắng lắm lắm để có thể giữ mình bình thản trong chuyện này, vì lòng kiêu hãnh của tôi đã bị chà đạp mà. Thế nhưng, trái tim tôi, trái tim tôi dám thề rằng mới một, hai ngày trước thôi đã khô héo và đã chết, thì giờ đây đột nhiên run lên trở lại, cho dù tôi đã nghiêm khắc cảnh cáo nó đừng có như thế rồi.
“Làm sao tôi có thể ở lại?” Jesse hỏi. “Sau chuyện xảy ra giữa chúng ta, Susannah, làm sao tôi có thể ở lại?
Tôi thực sự không hiểu anh ấy đang nói gì. “Chuyện xảy ra giữa chúng ta ư? Ý anh là sao?”
“Nụ hôn đó.” Anh ấy buông tay tôi ra, quá bất ngờ khiến tôi loạng choạng.
Nhưng tôi mặc kệ. Tôi mặc kệ, bởi lẽ tôi bắt đầu nghĩ rằng một điều kỳ diệu đang đến. Một điều hạnh phúc vô cùng. Tôi nghĩ đến điều đó nhiều hơn khi thấy Jesse đưa tay lên, lùa những ngón tay qua mái tóc, và tôi thấy những ngón tay ấy đang run rẩy. Tại sao ngón tay anh ấy lại run như thế kia nhỉ?
“Làm sao tôi có thể ở lại?” Jesse hỏi. “Cha Dominic nói đúng. Em cần ở bên một người mà gia đình và bạn bè em thực sự có thể nhìn thấy được. Em cần ở bên một người có thể ngày một già đi cùng với em. Em cần ở bên một người còn đang sống.”
Đột ngột, tất cả bắt đầu trở nên sáng rõ. Những tuần lễ im lặng khó chịu giữa hai chúng tôi. Sự thờ ơ của Jesse. Không phải vì anh ấy không yêu tôi. Hoàn toàn không phải vì anh ấy không yêu tôi một chút nào.
Tôi lắc đầu. Máu trong người tôi mà mấy ngày qua tôi tưởng như đã đông cứng lại trong mạch, thì giờ đột ngột lại bắt đầu chảy. Tôi hi vọng mình không mắc thêm một sai lầm nào nữa. Tôi hi vọng đây không phải là một giấc mơ, giấc mơ mà chẳng mấy chốc tôi sẽ phải thức tỉnh.
“Jesse,” tôi nói, cảm thấy ngất ngây trong hạnh phúc, “em không quan tâm bất kỳ điều gì trong số đó hết. Nụ hôn đó… nụ hôn đó là điều tuyệt vời nhất từng đến với em.”
Tôi chỉ đơn giản nói ra một sự thật mà thôi. Tất cả chỉ có vậy. Một sự thật mà tôi tin chắc anh ấy đã biết từ trước rồi.
Nhưng có lẽ điều đó đối với anh ấy cũng thật bất ngờ, vì điều tiếp theo tôi biết là, anh kéo tôi vào vòng tay, và hôn tôi đắm đuối một lần nữa.
Và cái thế giới mà mấy tuần qua như thể đã rời khỏi trục quay của nó đột ngột trở về vị trí ngay ngắn như trước. Tôi ở trong vòng tay Jesse, anh ấy đang hôn tôi, và tất cả mọi chuyện đều ổn cả. Còn hơn cả ổn ấy chứ. Mọi thứ thật hoàn hảo. Bởi vì anh ấy yêu tôi.
Và vâng, có thể điều đó nghĩa là anh ấy phải chuyển đi… vâng, vẫn còn chuyện với tên Paul nữa. Tôi vẫn không dám chắc mình sẽ phải làm gì với chuyện đó.
Nhưng có điều gì trong số ấy quan trọng đâu nào? Anh ấy yêu tôi!
Và lần này, khi anh ấy hôn tôi, không còn ai chen ngang nữa.
* * *
[1] Nhân vật trong Thần thoại Hi Lạp, rất đẹp trai
[2] WD-40 là chất bôi trơn chống gỉ sét
[3] Anchorage là thành phố lớn nhất bang Alaska
[4] Miagi là huấn luyện viên trong phim Karate Kid
[5] Martha Steward là người Mỹ nổi tiếng trong lĩnh vực ẩm thực, nhà bếp
[6] Alzheimer là bệnh thường gặp ở người cao tuổi, gây mất trí nhớ, nói năng khó khăn
[7] Vua Tutankhamun sống vào khoảng từ 1347 đến 1339 TCN, thời Tân Vương Quốc, triều đại thứ 18, vị vua này khi lên ngôi còn trẻ, ngôi mộ của ông ta rất nổi tiếng, còn gần như nguyên vẹn khi được Howard Carter phát hiện năm 1922
[8]Hell’s Angel là từ để chỉ thành viên một nhóm người (thường là đàn ông) lái xe môtô phân khối lớn, mặc đồ da, cư xử hung bạo
[9] Scenic có nghĩa là ‘cảnh đẹp’
[10] Reese Witherspoon là cô diễn viên tóc vàng xinh đẹp của Mỹ,
[11] Dick Cheney: Richard Bruce "Dick" Cheney (sinh ngày 30 tháng 1 năm 1941 tại Lincoln, Nebraska) là Phó Tổng thống Hoa Kỳ thứ 46 (tháng 1/2001 đến tháng 1/2009), kế nhiệm Albert Gore, Jr. Là đảng viên Đảng Cộng hòa Hoa Kỳ, ông phục vụ dưới Tổng thống George W. Bush. Trước đây, ông là Tham mưu trưởng Nhà Trắng, một hạ nghị sĩ của Wyoming, và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngoài chính phủ, ông đã làm Chủ tịch và Tổng giám đốc của Halliburton Energy Services. (Wikipedia)
[12] Rico Suave là một vận động viên đấu vật chuyên nghiệp người Puerto Rico có tên thật là Julio Estrada
[13] Pinata là đồ chơi nhiều màu sắc trong các lễ hội của những người nói tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ, bên trong có đồ chơi và kẹo, trẻ em bịt mắt dùng gậy đánh để chúng rơi ra.