Dĩ nhiên là tôi sẽ không đi gặp hắn rồi. Tôi có ngốc đâu, cho dù có thừa bằng chứng chứng tỏ cái điều ngược lại. Trước đây, tôi từng đi gặp đủ loại người, đủ mọi lúc, và rồi vài tiếng đồng hồ sau đó thì thấy rằng mình không bị trói vào ghế, không đâm đầu vào một thế giới khác, không bị bắt phải mặc áo tắm một mảnh, thì cũng bị đối xử tàn tệ. Tan học tôi sẽ không đi gặp tên Paul đâu. Chắc chắn là không.
Ấy thế mà sau đó thì lại vẫn cứ lò dò đi.
Ừ thì, tôi còn làm gì được nào? Sự cám dỗ ấy quá lớn. Ý tôi muốn nói là, những bằng chứng thực sự được ghi chép lại về những người làm cầu nối ấy à? Người này có thể chiếm đoạt thân xác người kia ấy à? Tất cả những cơn ác mộng về những hành lang dài mờ sương trong thế giới kia sẽ không thể ngăn được tôi đi tìm sự thật về việc tôi là ai, tôi có thể làm được những gì. Đã bao năm qua tôi tự hỏi những điều đó, không thể để một cơ hội như thế trôi qua tay được. Khác với Cha Dominic, tôi chưa bao giờ chỉ đơn thuần chấp nhận số phận được an bài cho mình… Tôi muốn biết tại sao và bằng cách nào nó lại được ấn định cho tôi. Tôi phải biết điều đó.
Và nếu như để tìm hiểu mà tôi phải mất thời gian với một kẻ thường xuyên ám ảnh giấc ngủ của mình thì đành. Cũng đáng để hi sinh lắm chứ. Hay đúng hơn là tôi hi vọng nó xứng đáng.
Đương nhiên là Adam và Cee Cee không thích thú gì rồi. Khi tan tiết học cuối cùng, hai người bọn họ gặp tôi ở hành lang – nhờ ơn đôi giày của mình, tôi phải đi tập tễnh, nhưng Cee Cee không để ý. Cô nàng đang quá bận bịu với cái danh sách nàng thảo ra trong giờ Sinh học.
“Thế này nhé,” cô nàng nói. “Chúng ta sẽ đến siêu thị Safeway để kiếm bút màu, giấy ánh kim, hồ dán và bìa. Adam, mẹ cậu còn giữ lại mấy cái chốt trong gara từ hồi tranh chức chủ tịch hội Amis? Vì ta có thể dùng chúng để dựng biểu ngữ Hãy Bỏ Phiếu Cho Suze.”
“Ừm,” tôi nói, tập tễnh lê lết bên cạnh hai đứa. “Các cậu ơi.”
“Suze, bọn mình mang hết đồ đến nhà cậu để chuẩn bị được không? Nhà mình thì cũng được thôi, nhưng cậu biết mấy đứa em gái mình rồi đấy. Chúng có thể trượt patanh lên đống đó lắm.”
“Các cậu,” tôi nói. “Nghe này. Mình rất biết ơn các cậu về chuyện này, thật đấy. Nhưng mình không thể đi cùng hai cậu được. Mình có việc mất rồi.”
Adam và Cee Cee liếc nhau.
“Ô?” Cee Cee nói. “Đi gặp chàng Jesse bí ẩn chứ gì?”
“Ừm,” tôi đáp. “Không hẳn thế – ”
Đúng lúc đó, Paul lướt qua bọn tôi ở hành lang. Thấy tôi đi tập tễnh, hắn nói: “Để tôi đỗ xe chỗ cửa bên cạnh. Như thế cậu sẽ không phải đi bộ ra đến tận cổng chính,” rồi biến thẳng.
Adam nhìn tôi, cậu chàng bị choáng. “Kết thân với kẻ thù kìa!” cậu ta kêu lên. “Thật đáng hổ thẹn thay cho cô nương!”
Cee Cee trông cũng sững sờ không kém. “Cậu đi chơi với hắn ư?” Cô nàng lắc lắc đầu, khiến cho mái tóc vàng bạch kim thẳng tưng trở nên óng ánh. “Vậy còn Jesse thì thế nào?”
“Mình không đi chơi với hắn,” tôi ngại ngùng nói. “Bọn mình chỉ… cùng nhau làm chung đề tài thôi.”
“Đề tài gì?” Đằng sau cặp kính, đôi mắt Cee Cee nheo lại. “Của môn nào?”
“Là…” tôi đổi chân trụ, hi vọng có thể đỡ đau được phần nào do đôi guốc tàn bạo kia, thế mà cũng chẳng xong. “Không phải bài tập ở trường. Đúng hơn là làm cho… cho… nhà thờ.”
Khi từ đó thốt ra khỏi miệng, tôi biết mình đã phạm phải một sai lầm. Cee Cee sẽ không ngại ngần gì cái việc bị bỏ lại một mình cùng với Adam – mà thực ra, có thể cô nàng còn thích thế ấy chứ – nhưng cô nàng sẽ không để cho tôi tẩu thoát mà không có lý do chính đáng.
“Nhà thờ á?” Cee Cee trông cáu điên. “Quên à, cậu là dân Do thái cơ mà Suze.”
“Ừm, đúng ra mà nói thì không hẳn,” tôi đáp. “Ý mình là, bố mình theo Do thái thật, còn mẹ mình thì không – ” Tiếng còi xe vọng chỗ chiếc cổng trang trí đã được kéo lên mà bọn tôi đang đứng đằng sau. “Ui, Paul đấy. Mình đi đây. Xin lỗi nhé.”
Thế rồi, khá nhanh đối với một đứa con gái mà mỗi bước đi lại đau buốt lên khắp đôi chân, tôi chuồn đến chỗ cái xe mui trần của Paul và chui vào ghế cạnh ghế tài xế, thở phào một cái nhẹ người một lần nữa khi ngồi xuống, có cảm giác rằng cuối cùng thì tôi cũng sắp tìm hiểu được đôi điều về chuyện thực ra thì mình là ai – hay mình là cái gì…
Nhưng tôi cũng có một cảm giác khác mạnh mẽ không kém, cảm giác mình sẽ không thích thú gì điều mình tìm hiểu được. Thực ra, trong tôi cũng đang có phần băn khoăn không biết có phải mình đang mắc sai lầm lớn nhất trong đời hay không.
Paul với cặp kính râm tối màu và nụ cười ưa nhìn trông y như một ngôi sao điện ảnh kia cũng chẳng khiến chuyện này trở nên dễ dàng gì hơn. Tên này rõ ràng là anh chàng trong mơ của bất kỳ đứa con gái bình thường nào, thế mà sao tôi lại có thể gặp bao nhiêu ác mộng về hắn? Tôi không hề bỏ lỡ những cái nhìn đầy ghen tị đang hướng về phía mình từ khắp nơi trong bãi đỗ xe.
“Tôi đã nói là tôi thấy đôi giày đó flickin’ chưa ấy nhỉ?”
Tôi nuốt nước bọt. Thậm chí tôi còn chẳng biết flicking nghĩa là gì. Nghe giọng điệu hắn thì đoán có lẽ cái từ đó có nghĩa tốt.
Mình có thực sự muốn làm thế này không? Việc đó có đáng không?
Câu trả lời vọng lên từ trong sâu thẳm, tôi nhận ra rằng mình đã biết từ lâu rồi: Có. Có chứ.
“Cậu lái xe đi,” tôi nói, giọng khàn hơn bình thường vì tôi đang cố che giấu nỗi lo lắng.
Và hắn lái.
Hắn đưa tôi đến một ngôi nhà hai tầng khá ấn tượng, xây bên cạnh một mỏm đá ngay cuối bãi biển Carmel. Ngôi nhà gần như được làm hoàn toàn bằng kính để tận dụng ngắm cảnh biển và cảnh hoàng hôn.
Paul có vẻ để ý thấy tôi bị ấn tượng, vì hắn nói: “Đó là nhà của ông tôi. Ông ấy muốn một căn nhà nhỏ ở bãi biển để nghỉ hưu ở đó.”
“Phải,” tôi nói, nuốt xuống thật khó khăn. Cái nhà “nho nhỏ” bên bãi biển này của Ông Slater hẳn phải tốn tầm năm triệu đô. “Mà ông ấy không thấy phiền khi đột ngột có người đến ở cùng à?”
“Cậu đùa chắc?” cười khẩy khi đỗ xe vào trong cái gara bốn chỗ. “Ông ta hoàn toàn chẳng biết tôi đang ở đây. Phần lớn thời gian ông già chết giấc nhờ thuốc ngủ mà.”
“Kìa Paul,” tôi ngại ngần nói.
“Sao nào?” Paul chớp mắt nhìn tôi sau cặp kính Ray-Ban. “Tôi chỉ nói sự thật thôi. Ông già toàn phải nằm giường và lẽ ra nên vào nhà dưỡng lão thì hơn, nhưng khi nhà tôi cố chuyển, ông già làm ầm ỹ lên. Thế là khi tôi bảo tôi chuyển đến để trông coi mọi thứ thì bố tôi đồng ý. Lợi cả đôi đường mà. Ông thì được sống trong nhà – tất nhiên là có người chăm sóc – còn tôi thì được vào học ở ngôi trường mơ ước, Trường Truyền Giáo.”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng lên nhưng cố giữ cho giọng bình thường. “Ô, vậy ra mơ ước của cậu là được đi học ở một ngôi trường Công giáo à?” tôi châm chọc.
“Là thế nếu như cậu cũng có ở đó,” Paul nói, cũng bình thường như giọng tôi, nhưng không châm chọc bằng.
Mặt tôi nhanh chóng chuyển sang đỏ như gấc. Ngoảnh đi để Paul khỏi thấy, tôi nói một cách nghiêm túc: “Tôi không nghĩ đây là ý tưởng hay lắm đâu.”
“Bình tĩnh đi, Simon,” Paul lè nhè. “Người chăm ông già cũng ở đây trong trường hợp cậu phát sinh lo lắng con gái khi phải ở một mình trong nhà cùng với tôi.”
Tôi nhìn theo hướng Paul chỉ. Phía cuối chỗ đường lái xe vòng cung đổ dốc là một chiếc Toyota Celica cũ. Tôi không nói gì cả, nhưng cái chính là do tôi hơi bị kinh ngạc khi Paul có vẻ như đọc được ý nghĩ của tôi một cách dễ dàng. Tôi ngồi đó cân nhắc lại mọi chuyện. Chưa bao giờ tôi thực sự đề cập đến chuyện này với bố mẹ, nhưng tôi biết họ sẽ không cho phép tôi đến nhà bọn con trai khi bố mẹ chúng đi vắng.
Nhưng mặt khác, nếu không làm thế thì tôi sẽ chẳng bao giờ khám phá ra được điều mình cần biết – và đến lúc này thì tôi tin rằng tôi thực sự cần phải biết điều đó.
Paul ra khỏi xe rồi vòng đến chỗ tôi ngồi, mở cửa cho tôi. “Ra đi chứ, Suze?” hắn hỏi, khi tôi không hề động đậy để tháo dây an toàn ra.
“Ừm,” tôi nói, lo lắng liếc nhìn ngôi nhà bằng kính rộng lớn. Cho dù có chiếc Toyota đấy, nhưng trông nó vẫn vắng vẻ trống rỗng đến khó chịu.
“Có ra không nào, Suze?” hắn hỏi, đảo tròn hai mắt. “Tôi không đe doạ đức hạnh của cậu đâu. Tôi xin thề sẽ nghiêm túc. Đây là chuyện công việc. Rồi sau đó tha hồ mà có thời gian vui vẻ.
Tôi cố gắng mỉm cười bình thản để hắn không nghi ngờ, không phát hiện ra rằng tôi không quen khi mọi người – thôi được rồi, thì bọn con trai – nói như vậy với tôi. Nhưng thật ra thì không phải thế. Tôi thấy khó chịu về cảm giác của chính mình khi nghe Paul nói vậy. Ý tôi là, tôi thậm chí còn chẳng thích hắn, nhưng cứ khi nào hắn nói ra cái điều như thế – rằng hắn nghĩ tôi là người… (chẳng biết nữa…) đặc biệt ấy mà – thì một cơn rùng mình lại chạy dọc sống lưng tôi… nhưng không tệ.
Vấn đề là thế đấy. Cảm giác đó không hề tệ. Thế là thế nào nhỉ? Tôi thậm chí còn chẳng thích Paul cơ mà. Tôi đã trao trọn trái tim mình cho người khác rồi. Ừ thì, hiện tại Jesse chẳng tỏ vẻ gì thực sự đáp lại tình cảm của tôi, nhưng không phải vì thế mà tôi đột ngột bắt đầu chơi bời hẹn hò với tên Paul Slater… cho dù trông hắn có đẹp trai đến mấy trong cặp kính Ray-Ban đi chăng nữa.
Tôi ra khỏi xe.
“Quyết định sáng suốt đấy,” Paul nhận xét, đóng cửa xe lại sau lưng tôi.
Tiếng cánh cửa đóng sập lại dường như ám chỉ một điều không thể thay đổi được nữa. Tôi cố không nghĩ đến chuyện mình đang dấn thân vào điều gì khi theo Paul bước lên những bậc thang ximăng dẫn lên cánh cửa kính rộng ngôi nhà của ông hắn ta bằng đôi chân trần, một tay cầm đôi guốc Jimmy Choo, tay kia cầm túi đựng sách vở.
Trong ngôi nhà của gia đình Slater, không gian thật mát mẻ và tĩnh lặng… tĩnh lặng đến mức thậm chí không nghe được những âm thanh rì rào của đại dương bên dưới ngôi nhà ba trăm mét. Dù người nào đã trang hoàng cho ngôi nhà này đi nữa, thì người đó cũng có gu thẩm mỹ thiên về những thứ gì hiện đại, mọi thứ trông đều thanh nhã, mới mẻ và thiếu thoải mái. Tôi tưởng tượng ra ngôi nhà vào buổi sáng chắc phải đến lạnh băng khi sương ùa vào, vì mọi thứ trong nhà đều làm bằng kính và kim loại. Paul dẫn tôi lên một chiếc cầu thang xoắn bằng thép từ cửa trước dẫn đến khu bếp trang bị cực kỳ hiện đại, tất cả đồ bếp đều sáng bóng lên một vẻ thật đáng sợ.
“Cocktail nhé?” hắn hỏi, mở cánh cửa kính của chiếc tủ rượu.
“Đùa hay lắm,” tôi nói. “Cho tôi nước lọc thôi. Ông cậu đâu rồi?”
“Dưới sảnh,” Paul nói khi lôi ra hai chai nước loại đắt tiền từ trong chiếc tủ lạnh to vĩ đại. Chắc hắn cũng thấy tôi lo lắng ngoái lại đằng sau, vì hắn nói thêm: “Không tin thì cậu tự đi mà xem.”
Tôi tự đi xem lấy. Không không tin hắn… ừm, thôi được rồi, đúng là tôi không tin hắn thật. Dù hắn mà dám nói dối một điều tôi dễ dàng kiểm tra được thì cũng liều đấy. Thế nếu hoá ra ông hắn không có ở đó thật thì tôi biết làm thế nào? Ý tôi là, còn lâu tôi mới chịu đi về trước khi khám phá ra cái điều tôi đến để tìm hiểu.
May thay, có vẻ không cần phải thế. Nghe thấy một vài tiếng động khẽ, tôi lần theo hành lang kính dài cho đến khi tới một căn phòng có chiếc tivi màn hình lớn đang bật. Ngồi trước tivi là một ông cụ rất già trong một cái xe lăn cực kỳ hiện đại. Bên cạnh cái xe, trên một chiếc ghế trông rất thiếu thoải mái là một cậu thanh niên còn khá trẻ mặc bộ đồng phục y tá màu xanh dương, đang đọc một tờ tạp chí. Khi tôi xuất hiện nơi ngưỡng cửa, anh ta ngẩng lên và mỉm cười.
“Chào cô,” anh ta nói.
“Xin chào,” tôi đáp lại, và khép nép bước vào trong. Đó là một căn phòng đẹp, chắc là một trong những phòng có cảnh đẹp hơn trong ngôi nhà. Trong phòng là một chiếc giường bệnh viện có khung điều chỉnh, đi kèm với một chiếc túi truyền dịch, những giá sách bằng kim loại trên đó đặt đầy những khung ảnh. Hầu hết là ảnh đen trắng, cứ xem cách ăn mặc của những người trong ảnh thì chúng được chụp từ những năm 1940.
“Ừm,” tôi nói với ông cụ ngồi trong xe lăn. “Chào ông Slater. Cháu là Susannah Simon ạ.”
Ông cụ đó chẳng nói chẳng rằng. Thậm chí ông ta còn chẳng thèm rời mắt khỏi chương trình gameshow đang bật trước mặt. Tóc ông ta rụng gần hết, da dẻ đầy những vết đồi mồi, miệng hơi chảy nước. Người y tá nhận thấy điều đó bèn rướn người sang, dùng khăn tay lau miệng cho ông cụ.
“Kìa cụ Slater,” người y tá nói. “Cô bé chào cụ đấy. Cụ không định chào lại cô ấy à?”
Nhưng ông Slater chẳng nói gì cả. Thay vào đó, Paul, kẻ đã vào trong phòng theo sau tôi, bèn nói: “Thế nào rồi ông già? Lại thêm một ngày nữa ngồi cắm rễ trước cái tivi cũ rích đó à?”
Ông Slater cũng chả thèm đáp lời Paul. Người y tá nói: “Ngày hôm nay thật vui, phải không cụ Slater? Chúng ta đi dạo ngoài sân, quanh bể bơi và hái vài quả chanh.”
“Hay lắm,” Paul nói với vẻ hào hứng miễn cưỡng. Rồi hắn nắm lấy tay tôi, bắt đầu lôi tôi ra khỏi phòng. Phải thừa nhận là hắn chẳng mất công co kéo gì cho lắm. Tôi thấy phát sợ rồi, và cũng đành đi theo. Điều đó cũng đáng nói đấy, cứ xem tôi nghĩ gì về tên Paul thì biết. Ý tôi là, còn có một người khiến tôi sợ hơn cả tên Paul cơ đấy.
“Chàu ông Slater,” tôi nói, chả trông mong gì một lời đáp… điều đó thật tốt, vì đúng là tôi chả nhận được câu nào thật. Ra đến hành lang, tôi khỏi khẽ: “Ông ấy làm sao thế? Bị bệnh Alzheimer[6] à?”
“Không,” Paul nói, đưa cho tôi một trong mấy chai nước màu xanh đậm. “Chính xác thì bác sỹ cũng không biết là bệnh gì. Lúc nào ông ta muốn thì cũng tỉnh táo đấy.”
“Thế à?” tôi thấy thật khó tin. Những người tỉnh táo lúc nào cũng tự kiểm soát được tuyến nước bọt của mình chứ. “Có thể chỉ là… cậu biết đấy. Ông ấy già rồi.”
“Ờ,” Paul nói, kèm những tiếng cười bực bội đặc trưng của hắn. “Có thể thế.” Rồi, không nói thêm gì nữa, hắn mở một cánh cửa phía bên phải và nói: “Đây. Tôi muốn cho cậu xem thứ này.”
Tôi theo hắn vào trong một căn phòng mà rõ ràng là phòng của hắn. Nó to gấp năm lần phòng tôi – giường của Paul thì to gấp năm lần giường tôi. Giống như những phần còn lại của ngôi nhà, tất cả mọi thứ đều được sắp xếp rất đâu ra đấy và hiện đại, với nhiều đồ kim loại và kính. Thậm chí còn có cả một cái bàn kính – chắc của Plexiglas – trên đó là một cái laptop mới cứng, thuộc loại xịn nhất. Khắp phòng Paul chẳng hề có những thứ linh tinh như phòng tôi lúc nào cũng lung tung beng – tạp chí, tất bẩn, sơn móng tay, nửa hộp bánh quy Girl Scout ăn dở. Chẳng hề có bất kỳ thứ gì riêng tư trong phòng Paul hết. Đó giống như là căn phòng khách sạn rất hiện đại, tiện nghi, và rất lạnh lẽo.
“Ở đây,” Paul nói, ngồi xuống mép cái giường to bằng cỡ một cái thuyền.
“Ừ,” tôi nói, giờ thì sợ hơn bao giờ hết… không chỉ vì Paul đang đập tay xuống chỗ giường trống cạnh hắn. Không, đó còn là do ngoại trừ trang phục tôi và Paul đang mặc, màu sắc duy nhất trong căn phòng là màu tôi có thể nhìn thấy bên ngoài những khung cửa sổ kính to khủng khiếp: màu xanh, màu xanh của trời, màu xanh đậm hơn của đại dương bên dưới. “Phải rồi.”
“Tôi không đùa đâu,” Paul nói, thôi không đập đập lên chỗ tấm trải giường như kiểu muốn tôi ngồi cạnh. Thay vì vậy, hắn thò xuống dưới gầm giường, lôi ra một cái hộp nhựa trong, giống kiểu bạn hay dùng để cất áo len khi đang mùa hè ấy. Đặt cái hộp lên giường cạnh hắn, Paul mở nắp ra. Bên trong là thứ gì đó trông như một số bài báo và tạp chí, mỗi bài đều được cắt ra cẩn thận từ tờ báo nguyên b
“Xem cái này đi,” Paul nói, cẩn thận mở một bài báo trông đặc biệt xưa cũ, trải nó trên tấm trải giường màu xanh xám để tôi có thể đọc. Đó là bài báo trong tờ Times ở London, ngày xuất bản 18 tháng 6 năm 1952. Trên đó là bức ảnh một người đàn ông đang đứng trước một cái gì trông như là một bức tường khắc chữ tượng hình của một ngôi mộ cổ Ai Cập. Hàng tít trên bài báo và bức ảnh đề là: “Những Người Hoài Nghi Coi Thường Giả Thuyết Của Nhà Khảo Cổ Học.”
“Tiến sỹ Oliver Slaski – đó là người trong ảnh – đã làm việc nhiều năm để dịch lại những dòng chữ trên bức tường của lăng mộ vua Tutankhamun[7],” Paul giảng giải. “Ông ta đi đến một kết luận rằng vào thời Ai Cập cổ đại, thực sự có tồn tại một nhóm nhỏ các pháp sư có khả năng đến và đi khỏi vương quốc của người chết mà không cần chính bản thân họ phải chết. Như Tiến sỹ Slaski dịch lại một cách chính xác nhất có thể, thì những pháp sư đó được gọi là shifter—người chuyển dịch giữa hai thế giới. Họ có thể di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác, và gia đình người chết thuê họ để làm người dẫn đường cho linh hồn người đã chết để đảm bảo chắc chắn rằng người thân của họ đến được nơi cần đến, thay vì phải lang thang không mục đích trên đời này.”
Trong khi Paul nói, tôi ngồi hẳn xuống giường để có thể nhìn bức ảnh mà hắn đang nói đến một cách rõ hơn. Lúc trước thì tôi lưỡng lự – tôi không muốn lại gần Paul tí nào hết, nhất là lại dính dáng đến chuyện giường giếc thế kia.
Tuy vậy, giờ tôi hầu như không để ý thấy rằng bọn tôi đang ngồi gần nhau đến mức nào. Tôi rướn người về phía trước để nhìn bức ảnh chăm chăm, đến khi tóc tôi quệt vào tờ báo cũ nát ngả vàng.
“Người chuyển dịch giữa hai thế giới,” tôi nói qua đôi môi bỗng trở nên lạnh toát một cách lạ lùng như thể tôi vừa mới bôi son Carmex lên môi vậy. Chỉ có điều là không phải thế. “Ông ấy muốn ám chỉ đến những người làm cầu nối.”
“Tôi không nghĩ vậy,” Paul nói.
“Không,” tôi nói. Tôi cảm thấy hơi tức thở. Bạn cũng sẽ thế thôi, nếu như cả đời bạn đã băn khoăn tự hỏi tại sao bạn lại khác biệt đến thế với những người xung quanh, và rồi đùng một cái, một ngày kia bạn tìm ra sự thật. Hay ít ra là nắm được một đầu mối rất quan trọng.
“Chính xác là như vậyPaul,” tôi kêu lên. “Lá bài thứ chín trong bộ bài tarot – cái người được gọi là Ẩn sĩ ấy – lá bài đó miêu tả một ông già tay cầm chiếc đèn lồng, giống như người này,” tôi nói, chỉ vào hình người trong chữ tượng hình. “Khi người ta bói bài cho tôi, lá bài đó luôn luôn xuất hiện. Ẩn sĩ là người dẫn đường cho linh hồn người chết, đưa họ đến với cái đích cuối cùng. Ừ thì, cái người trong chữ tượng hình đó không già, nhưng cả hai người họ đều làm công việc như nhau… Ông ấy chắc chắn là muốn nói đến người làm cầu nối Paul ạ,” tôi nói, trái tim đập thình thình trong ngực. Chuyện này trọng đại quá. Rất trọng đại. Sự thật rằng có một bằng chứng được ghi lại hẳn hoi, chứng minh sự tồn tại của những người như tôi… Chưa bao giờ tôi mong chờ được thấy một thứ như thế này. Tôi không thể chờ được đến lúc kể cho Cha Dominic nữa. “Chắc chắn là như vậy!”
“Nhưng không phải tất cả đều như thế đâu Suze,” Paul nói, lại thò tay vào trong hộp nhựa, lôi ra một mẩu báo khác, cũng ngả nâu vì thời gian. “Theo như Tiến sỹ Slaski, người đề ra những luận điểm này, từ thời Ai Cập cổ đại cũng có ông đồng bà đồng, những kẻ tầm thường liên lạc được với người chết, hay nếu cậu thích thì gọi là người làm cầu nối đi. Nhưng cũng tồn tại cả những người chuyển dịch nữa. Đó,” Paul nói, nhìn tôi rất chăm chú từ bên kia giường, cách không xa lắm, vì chúng tôi chỉ cách nhau khoảng ba mươi centimet, những bài báo nêu lên luận điểm của Tiến sỹ Slaski đặt ở giữa, “mới chính là con người thật của cậu và tôi, Suze ạ. Những người chuyển dịch giữa hai thế giới.”
Tôi lại cảm nhận thấy cơn ớn lạnh chạy dọc theo sống lưng, khiến lông trên tay tôi dựng đứng cả lên. Tôi không biết do cái gì – do mấy từ đó, những người chuyển dịch giữa hai thế giới, hay là cái cách Paul nói ra. Nhưng nó khiến tôi bị ảnh hưởng, ảnh hưởng rất mạnh… Giống như là thò một ngón tay vào ổ điện vậy. Tôi lắc đầu.
“Không,” tôi nói bằng một giọng hốt hoảng. “Không phải tôi. Tôi chỉ là người làm cầu nối thôi. Ý tôi là, nếu tôi đúng là một người dịch chuyển thật, thì lần đó tôi đâu cần phải tự yểm trừ mình – ”
“Cậu đâu cần phải làm thế,” Paul ngắt lời, khác với giọng nói cao vút của tôi, giọng hắn trầm trầm và bình tĩnh. “Cậu có thể tự khiến bản thân mình đến – và đi khỏi – nơi đó, chỉ bằng cách hình dung ra mà thôi. Ngay bây giờ, nếu muốn, cậu có thể làm được đấy.”
Tôi chớp mắt nhìn hắn. Tôi nhận ra, bên trên những tờ báo viết về luận điểm của Tiến sỹ Slaski, đôi mắt Paul rất sáng. Sáng gần như mắt mèo vậy. Tôi không dám chắc liệu hắn đang nói thật hay chỉ đơn giản là đùa giỡn với đầu óc tôi mà thôi. Thế nhưng, biết được con người Paul rồi, lẽ ra tôi cũng chẳng nên lấy gì ngạc nhiên mới phải. Hắn dường như thấy thích thú lắm bằng cách tiết lộ ra mọi chuyện rồi đứng nhìn xem người ta – thôi được, tôi đây chứ ai – phản ứng ra sao.
“Không đời nào,” tôi đáp lại lời hắn nói rằng tôi là con người khác với con người mình vẫn nghĩ. Cho dù quả thật lý do duy nhất tôi vào trong căn phòng của hắn là bởi vì, tận sâu trong thâm tâm, tôi biết mình không phải là người như tôi vẫn nghĩ.
“Thử đi,” Paul giục. “Hình dung ra nơi đó trong đầu. Giờ thì cậu biết nơi đó trông thế nào rồi đấy.”
Không bao giờ. Nhờ công đức của hắn, tôi đã bị mắc kẹt ở đó trong mười lăm phút, đó là mười lăm phút dài nhất trong đời tôi. Tôi vẫn còn kẹt lại ở đó hằng đêm, trong những giấc mơ. Cho dù ngay lúc này đây, tai tôi cũng có thể nghe thấy tiếng trái tim đập thình thình lúc tôi chạy dọc theo lối đi dài tăm tối, sương mù cuộn xoáy rồi tản ra quanh chân tôi. Thực sự, dù chỉ một giây phút thôi, Paul có nghĩ được rằng tôi không bao giờ còn muốn quay lại nơi đó một lần nào nữa?
“Không,” tôi đáp. “Không, cảm ơn – ”
Nụ cười của Paul chuyển sang nửa buồn cười, nửa khó chịu.
“Đừng bảo với tôi là Suze Simon lại thực sự biết sợ một thứ gì đấy nhé.” Cặp mắt hắn dường như sáng hơn bao giờ hết. “Lúc nào cậu chẳng làm ra vẻ miễn nhiễm với nỗi sợ, giống như kiểu một số người miễn nhiễm với bệnh thuỷ đậu ấy.”
“Tôi không sợ.” Tôi nói, giả vờ phẫn nộ. “Bây giờ tôi chỉ không thấy thích – gọi là gì ấy nhỉ? Ô, phải rồi, chuyển dịch. Có lẽ để sau. Ngay lúc này tôi muốn hỏi cậu một điều khác mà cậu đã nói đến. Chuyện một người có thể chiếm đoạt thân xác của người khác ấy. Tráo đổi linh hồn.”
Nụ cười của Paul nở rộng hơn. “Tôi biết điều đó có thể khiến cậu chú ý mà.”
Tôi biết hắn đang ám chỉ điều gì – hay đó là tôi đoán thế. Tôi cảm thấy mặt mình nóng lên. Tuy thế, lờ đi đôi má đang nóng bừng, tôi nói, hi vọng ra vẻ thờ ơ lắm: “Chỉ là vì nghe cũng có vẻ hay hay. Thực sự có thể làm được thế à?” Tôi khẽ kéo những trang giấy nhàu nhĩ đang đặt giữa bọn tôi. “Tiến sỹ Slaski có nói gì đến điều đó không?”
“Có thể,” Paul nói, chặn một bàn tay lên đống giấy viết bằng máy đánh chữ để tôi không cầm lên được.
“Paul,” tôi nói, kéo mấy tờ giấy. “Tôi chỉ tò mò thôi. Ý tôi là, cậu đã bao giờ làm thế chưa? Có hiệu quả thật không? Liệu Craig có thể thực sự chiếm lấy thân xác em trai hắn không?”
Nhưng Paul không chịu buông mấy tờ báo của Tiến sỹ Slaski ra. “Cậu hỏi thế không phải vì Craig, đúng không?” Đôi mắt xanh của hắn dán chặt vào tôi. Trên mặt hắn không còn dấu hiệu nào của nụ cười lúc trước nữa. “Suze, đến khi nào cậu mới chịu hiểu đây?”
Đến lúc đó, cuối cùng tôi cũng nhận ra mặt hắn đang ở gần với mặt tôi đến thế nào. Thực sự chỉ cách có một quãng rất ngắn. Theo bản năng, tôi bắt đầu lùi ra xa, nhưng những ngón tay lúc trước còn giữ lấy tờ báo về Tiến sỹ Slaski đó lại đột ngột đưa lên tóm lấy cổ tay tôi. Tôi nhìn xuống bàn tay Paul. Làn da rám nắng của hắn rất sẫm so với màu da tôi.
“Jesse chết rồi,” Paul nói. “Nhưng điều đó không có nghĩa cậu cũng phải cư xử như một kẻ đã chết thế.”
“Không đúng,” tôi chống chế. “Tôi – ”
Nhưng tôi chẳng kịp nói hết câu, vì ngay lúc đó, Paul ngả người sang và hôn tôi.