Dĩ nhiên là tôi không thể kể cho cô ấy được. Tôi không thể kể cho bất kỳ ai chuyện về Jesse hết, bởi vì, thực sự là, rồi ai sẽ chịu tin? Tôi biết chỉ có một người duy nhất – một người còn sống ấy – biết tất cả mọi điều về những kẻ như Paul và tôi, mà lý do duy nhất là vì ông ấy cũng là một người trong số chúng tôi. Lát sau, khi ngồi trước cái bàn làm việc màu nâu đỏ của ông, tôi không thể nén nổi một tiếng rên lên.
“Làm sao lại có thể xảy ra chuyện thế này được cơ chứ?” tôi hỏi.
Cha Dominic, hiệu trưởng Trường Truyền Giáo Junipero Serra, đang ngồi sau chiếc bàn to vĩ đại, vẻ mặt kiên nhẫn. Đó là nét mặt mà khi trở thành một cha cố tốt bụng thì, như người ta thường bảo, theo năm tháng sẽ càng trở nên kiên nhẫn hơn. Và giờ đã gần sáu mươi lăm tuổi, trông ông giống như Adonis[1] đeo kính, tóc bạc trắng vậy.
Ông lại còn đang rất ăn năn hối hận nữa chứ.
“Susannah, ta xin lỗi. Ta quá bận chuẩn bị cho năm học mới – đấy là chưa nói đến lễ hội mừng Cha Serra vào cuối tuần này nữa – nên ta chẳng để ý gì đến danh sách xin học cả.” Ông lắc lắc mái đầu bạc trắng cắt tỉa gọn gàng. “Ta thực sự rất, rất xin lỗi.”
Tôi nhăn nhó. Ông nói xin lỗi. Ông ấy xin lỗi ư? Thế còn tôi thì sao đây? Ông ấy có phải ngồi học cùng với cái tên Paul Slater đâu nào. Tận hai tiết cơ: tiết điểm danh và Lịch sử nước Mỹ. Suốt hai tiếng đồng hồ trong ngày tôi phải ngồi đó mà nhìn cái kẻ đã cố hại bạn trai của tôi, rồi còn để mặc cho tôi đến chết nữa chứ. Mà đấy là còn chưa tính đến tiết đầu giờ và lúc ăn trưa nhé. Lại thêm một tiếng nữa rồi!
“Dù vậy, thực sự ta cũng không biết mình có thể làm được gì,” Cha Dom nói, lật qua hồ sơ của Paul, “để ngăn cản cậu ta vào học ở đây. Kết quả các bài kiểm tra, điểm số, các lời nhận xét đánh giá của giáo viên… tất cả đều rất tốt, đáng để học tập. Ta rất xin lỗi, nhưng phải trên hồ sơ mà xét thì Paul Slater là một học sinh xuất sắc hơn con rất nhiều khi con nộp đơn vào ngôi trường này.”
“Một mớ kết quả bài kiểm tra chả nói lên được điều gì về tư cách đạo đức của một người cả,” tôi nói cho ông rõ. Tôi hơi bị tự ái về vấn đề này, do kết quả mấy bài kiểm tra của tôi cũng chỉ vào loại xoàng, khiến cho Trường Truyền Giáo phải do dự khi chấp nhận đơn xin học của tôi vào tám tháng trước, khi mẹ tôi tuyên bố rằng hai mẹ con sẽ chuyển đến sống ở California để mẹ có thể kết hôn với Andy Ackerman, người đàn ông trong mơ của mẹ, và bây giờ là bố dượng của tôi.
“Đúng,” Cha Dominic nói, mệt mỏi gỡ cặp kính xuống và dùng gấu áo chùng dài màu đen để lau. Tôi nhận thấy bên dưới mắt ông có hai quầng thâm. “Đúng là như vậy,” ông tán đồng, thở dài thật sâu, đặt lại cái kính lên sống mũi khoằm. “Susannah, con có thực sự chắc chắn rằng động cơ của cậu ta là không đàng hoàng không? Có lẽ Paul đang cần có người chỉ dẫn. Có thể, nếu được hướng dẫn đúng cách thì cậu ta sẽ thấy được những sai lầm trong những phương pháp của cậu ta chăng…”
“Vâng, thưa Cha Dom,” tôi châm chọc. “Và có thể năm nay con sẽ được bầu làm Nữ hoàng Cựu học sinh cũng nên.”
Cha Dominic trông không hài lòng. Khác với tôi, Cha Dominic toàn nghĩ tốt về mọi người, ít ra là cho đến khi những hành vi sau này của họ chứng tỏ niềm tin của ông vào lòng tốt vốn có của bọn họ là sai toét. Có thể bạn nghĩ rằng, với trường hợp của tên Paul Slater, ông hẳn đã chứng kiến đủ để có cơ sở đánh giá nhận xét đúng đắn về tên đó rồi chứ, nhưng rõ ràng là không phải.
“Chừng nào chúng ta còn chưa thấy được điều gì chứng tỏ cái điều ngược lại,” Cha D nói, “thì ta vẫn sẽ tin rằng Paul đến đây, đến Trường Truyền Giáo này, là vì cậu ta muốn học hỏi. Không chỉ học chương trình của lớp 11 thông thường, Susannah ạ, mà còn học những điều con và ta có thể chỉ dạy cho cậu ta nữa. Hãy cứ hi vọng rằng Paul đã hối hận về những hành động trước kia, và thực sự mong muốn được sửa chữa lỗi lầm. Ta tin rằng Paul đến đây là để bắt đầu một cuộc sống mới, giống như con năm ngoái ấy mà. Là những con người khoan dung độ lượng, chúng ta có nhiệm vụ giúp đỡ cậu ta đạt được điều đó. Chừng nào còn chưa chứng tỏ được điều ngược lại, ta cho rằng chúng ta cứ nên tạm thời tin tưởng ở Paul đi.”
Chắc đó là cái kế hoạch dở tệ nhất tôi từng biết. Nhưng thực sự là, tôi chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ rằng Paul đến đây là để gây rắc rối cả. Chỉ là chưa có mà thôi.
“Thôi nào,” Cha D nói, đóng tập hồ sơ của Paul lại và dựa lưng vào ghế. “Mấy tuần rồi ta chưa gặp con. Con có khoẻ không, Susannah? Và còn Jesse nữa?”
Tôi cảm thấy mặt mình nóng lên rồi. Thật là tệ khi mà chỉ cần nghe nhắc đến tên của Jesse thôi là có thể khiến tôi đỏ mặt, nhưng đúng là thế đấy. “Ừm,” tôi nói, hi vọng Cha D không để ý thấy hai má tôi đang nóng bừng cả lên. “Khoẻ cả ạ.”
“Vậy thì tốt,” Cha Dom nói, đẩy gọng kính lên mũi và liếc qua cái giá sách với vẻ lơ đãng. “Có một cuốn sách mà cậu ta bảo là muốn mượn đọc – Ô, đây rồi.” Cha Dom đặt vào tay tôi một cuốn sách to đùng, bọc da – ít nhất phải nặng đến hơn bốn cân ấy. “Lý thuyết Phê Phán Từ Thời Plato,” ông nói và mỉm cười. “Jesse hẳn là sẽ thích cuốn đó.”
Tôi thì chả nghi ngờ gì về điều đó rồi. Jesse toàn thích những cuốn sách chán nhất trên đời. Có thể đó là lý do tại sao anh ấy chẳng đáp lại tình cảm của tôi. Ý tôi là, không đáp lại theo cách như tôi mong muốn. Bởi vì tôi còn chưa đủ độ chán chứ sao.
“Rất tốt,” Cha D lơ đãng nói. Hẳn ông có nhiều việc phải lo nghĩ lắm. Những chuyến viếng thăm của giám mục lúc nào cũng khiến ông lo cuống cả lên, còn như tôi thấy thì lần này, việc tổ chức lễ hội dành cho Cha Serra (cái người mà có vài tổ chức cố gắng đề nghị cho ông ta được phong thánh nhưng không xong ấy mà), rồi đây sẽ trở thành chuyện rắc rối to bằng cái đình cho xem.
“Vậy cứ để ý canh chừng anh bạn trẻ Slater nhé,” Cha Dom nói tiếp, “để xem mọi chuyện sẽ diễn tiến ra sao. Cậu ta có thể sẽ ổn định tư tưởng rất nhanh trong một môi trường có quy củ như ở trường học này, Susannah ạ.”
Tôi khịt mũi. Không thể đừng được. Cha D thực sự không biết ông đang phải đương đầu với cái gì rồi. “Nếu không thì sao ạ?” tôi hỏi.
“Ừm,” Cha Dominic nói. “Việc đến đâu lo đến đấy. Giờ đi chơi đi. Đừng bỏ phí thời gian nghỉ trưa của con để ngồi đây với ta làm gì.”
Tôi miễn cưỡng rời phòng hiệu trưởng, mang theo cuốn sách nặng trĩu, cũ rích đầy bụi mà ông đưa. Sương sớm đã tan, lúc nào cũng thế, cứ mười một giờ là hết, và bầu trời phía trên cao kia xanh một màu rực rỡ. Trong sân, bọn chim ruồi đang bận bịu bay quanh đám hoa dâm bụt. Cái đài phun nước phát ra tiếng róc rách ầm ỹ, đến nửa tá khách du lịch mặc quần đùi đang đứng vây quanh – ngoài trường học ra, hội truyền giáo này còn là một di tích lịch sử, có một nhà thờ xây sâu với hai hàng cột và thậm chí còn cả một cửa hàng bán quà tặng, tất cả đều là những điểm thăm quan không thể bỏ qua trong hành trình của khách du lịch. Những chiếc lá cọ xanh sẫm khe khẽ đung đưa theo làn gió biển. L một ngày tuyệt vời nữa ở thành phố Carmel-ven-biển.
Vậy thì tại sao tôi lại cảm thấy chán chường thế này?
Tôi cố gắng tự nhủ với bản thân rằng mình đang phản ứng thái quá. Rằng Cha Dom nói có lý – chúng tôi không biết Paul chuyển đến Carmel này là có động cơ gì. Có thể hắn ta đã thay đổi hoàn toàn rồi.
Thế mà sao tôi không thể gạt bỏ cái hình ảnh đó – hình ảnh trong những cơn ác mộng của tôi – ra khỏi đầu được nhỉ? Cái hành lang dài tối tăm, tôi đang chạy dọc theo nó, tìm kiếm trong vô vọng một lối thoát mà chỉ thấy có mỗi màn sương. Đó là giấc mơ mà hầu như đêm nào tôi cũng mơ, và lúc tỉnh dậy thấy mình mồ hôi vã ra như tắm.
Thực sự, giữa cơn ác mộng và cái điều đang diễn ra lúc này đây, khi tôi đang tỉnh, tôi chẳng biết cái nào đáng sợ hơn. Paul đang làm gì ở đây? Hay thậm chí khó hiểu hơn nữa là, làm sao Paul lại biết nhiều đến thế về cái tài năng mà tôi và hắn đều có chung? Chẳng có bản tin nội bộ. Chẳng có hội thảo hay hội nghị gì cả. Khi bạn gõ cái từ mediator vào bất kỳ cỗ máy tìm kiếm online nào thì cũng chỉ thấy những chuyện về mấy ông bà luật sư hay người tư vấn gia đình. Lúc này đây tôi cũng đang không hiểu gì cả, giống như cái hồi tôi còn nhỏ và chỉ biết rằng mình… khác với những đứa trẻ con hàng xóm mà thôi.
Nhưng còn Paul. Có vẻ như Paul nghĩ rằng hắn biết câu trả lời.
Nhưng hắn thì biết được điều gì nào? Ngay cả Cha Dominic cũng không dám bảo rằng ông biết chính xác những người làm cầu nối – tạm gọi là thế vì không còn từ nào khác – như chúng tôi đây là như thế nào, đến từ đâu và tài năng của chúng tôi thực sự đến mức nào… thế mà ông còn lớn tuổi hơn cả hai chúng tôi cộng lại cơ đấy! Ừ, đúng, chúng tôi có thể nhìn thấy, nói chuyện – thậm chí còn cả hôn và đấm – những người đã chết… hay đúng hơn là linh hồn của những người đã chết mà vẫn còn những chuyện vướng bận, tôi khám phá ra được điều đó khi sáu tuổi, lúc bố tôi, người đã qua đời vì một cơn đau tim đột ngột, quay trở về sau đám tang và làm một cuộc chuyện trò nho nhỏ.
Nhưng chẳng phải nó là như thế sao? Ý tôi muốn nói, chẳng phải đó là những gì mà tất cả những người làm cầu nối có thể làm được hay sao? Theo như Paul đã nói thì, không phải.
Cho dù Cha Dominic có trấn an rằng Paul có thể có ý tốt, nhưng tôi vẫn không thể tin chắc được. Những kẻ như Paul chẳng làm gì mà không có lý do cả. Vậy hắn quay lại Carmel này để làm gì? Có thể nào đó chỉ là vì giờ đây hắn biết được còn có Cha Dom và tôi, thì hắn mong tiếp tục mối quan hệ với những người cùng đồng loại với chính hắn không?
Có thể là thế. Mà tất nhiên, cũng có thể là Jesse thực sự có yêu tôi và chỉ đang giả vờ như không yêu mà thôi, vì thực sự chuyện yêu đương giữa hai người bọn tôi cũng đâu có gì chính đáng cho lắm…
Ờ. Mà có thể tôi thực sự sẽ được đề cử làm Nữ hoàng Cựu học sinh như từ lâu tôi vẫn hằng mong muốn cũng nên…
Tôi vẫn cố không nghĩ đến chuyện đó lúc ăn trưa – chuyện về Paul chứ không phải chuyện Nữ hoàng Cựu học sinh – đang ngồi trên ghế ngoài trời, kẹp giữa Adam và Cee Cee, tôi mở cái lon nước soda ăn kiêng, hớp ngụm đầu tiên và suýt nữa thì phát nghẹn khi Cee Cee nói: “Kể đi chứ. Cái tên Jesse đó là ai? Lần này làm ơn trả lời đi đấy.”
Soda văng tung toé khắp nơi, đa phần từ mũi mà ra. Còn dính cả một ít lên cái áo sợi Benetton của tôi nữa.
Cee Cee chả mảy may thông cảm gì hết. “Nó là đồ uống ấy mà,” cô nàng nói. “Không bị ăn vào áo đâu. Mà sao bọn mình lại chưa bao giờ gặp anh ta là thế nào?”
“Ờ,” Adam nói, cười đùa hiệp một xong xuôi khi thấy soda phun ra từ hai lỗ mũi tôi. “Sao cái tên Paul đó biết anh ta, mà bọn mình thì không?”
Lấy tờ giấy ăn thấm thấm, tôi liếc về hướng Paul. Hắn đang ngồi trên một cái ghế cách bọn tôi không xa lắm, vây quanh là Kelly Prescott và những nhân vật nổi tiếng khác trong lớp, tất cả bọn chúng đều đang phá lên cười ầm ỹ khi nghe hắn kể câu chuyện nào đó.
“Jesse chỉ là một tên con trai thôi mà,” tôi nói, vì có cảm giác mình sẽ không chuồn đi được mà không phải trả lời những câu hỏi của hai đứa. Lần này thì không xong rồi.
“Chỉ là một tên con trai,” Cee Cee nhắc lại. “Chỉ là một tên con trai mà rõ ràng là cậu đang hẹn hò, như tên Paul đó đã nói.”
“Ừm,” tôi nói, không thấy thoải mái dễ chịu gì. “Ừ. Thì cũng gần như thế. Ý mình là… chuyện phức tạp lắm.”
Phức tạp ấy à? Mối quan hệ giữa tôi và Jesse khiến cho cái cuốn Lý thuyết Phê Phán Từ Thời Plato thành ra cuốn Chú chó nhỏ đáng yêu ấy.
“Nào,” Cee Cee nói, bắt chéo chân và hài lòng gặm mấy củ cà rốt bé tẹo lấy trong cái túi đặt trên đùi. “Kể đi. Hai người đã gặp nhau ở đâu?
Không thể tin nổi thực sự tôi đang ngồi ở đây, kể cho bạn tôi nghe về Jesse cơ đấy. Những người bạn mà tôi đã phải cố sống cố chết giấu giếm không cho biết gì về anh ấy cả.
“Anh ấy… ờ… là hàng xóm khu nhà mình,” tôi nói. Có kể hết sự thật cho bọn họ cũng chả được tích sự gì.
“Anh ta học ở RLS à?” Adam tò mò hỏi, nhắc đến Trường Trung học Robert Louis Stevenson và vươn người qua chỗ tôi, vớ lấy một củ cà rốt trong cái túi Cee Cee đặt trên đùi.
“Ừm, cũng không hẳn thế,” tôi đáp.
“Đừng bảo là anh ta học Trường Trung học Carmel đấy nhé,” đôi mắt Cee Cee mở to.
“Giờ anh ấy không còn học trung học nữa,” tôi đáp, biết rằng với bản tính của Cee Cee, chưa biết bằng hết thì cô nàng sẽ còn chưa chịu buông tha đâu. “Anh ấy…ừm… ra trường rồi.”
“Chà,” Cee Cee nói. “Anh lớn tuổi đây. Chả trách cậu cứ giấu. Thế anh ta học gì, đại học à?”
“Không hẳn thế,” tôi nói. “Anh ấy đang… ờ… dành thời gian nghỉ ngơi. Như kiểu là… để hiểu về chính bản thân anh ấy cái đã.”
“Hừm.” Adam dựa lưng vào ghế và nhắm mắt lại, để cho ánh mặt trời giữa trưa mơn man trên mặt. “Một kẻ đại lãn. Cậu có thể tìm được người khá khẩm hơn, Suze ạ. Cậu cần một người con trai đàng hoàng, đầu óc suy nghĩ chín chắn về chuyện công ăn việc làm. Một người con trai giống như là… Này, biết rồi. Mình đây chứ ai!”
Cee Cee, người đã để ý đến Adam từ khi tôi quen hai người bọn họ, lờ cậu ta đi. “Hai người bọn cậu hẹn hò được bao lâu rồi?” cô nàng tò mò.
“Mình cũng không biết,” tôi nói, giờ thì cảm thấy thật khốn khổ. “Nói chung là mới. Ý mình là, mình quen anh ấy được một thời gian rồi, nhưng còn chuyện hẹn hò thì… vẫn còn mới mẻ. Mà cũng không hẳn là… Ừm, mình không thích nói về chuyện này lắm đâu.”
“Nói về chuyện gì cơ ạ?” Một cái bóng hiện ra chỗ ghế bọn tôi. Tôi nheo mắt lại, ngẩng lên và trông thấy David, đứa em con dượng, đang đứng đó, mái tóc đỏ rực lên như hào quang dưới ánh mặt trời nóng bỏng.
“Chẳng có gì đâu,” tôi nói nhanh.rong số mọi người ở gia đình tôi – đúng thế, giờ đây tôi thực sự coi gia đình Ackerman, người cha dượng và những đứa con riêng, là gia đình của mình rồi, cái gia đình nhỏ mà trước đây vốn chỉ có hai mẹ con tôi sau khi bố qua đời – nhóc David mười ba tuổi là người duy nhất gần như biết được sự thật về con người tôi. Biết rằng tôi không chỉ đơn giản là một con nhóc teen có vẻ hay-bất-mãn như tôi hay giả vờ ấy mà.
Còn hơn thế nữa cơ, David biết chuyện về Jesse. Vừa biết mà cũng vừa không biết. Bởi vì dù nó, cũng như mọi người khác trong nhà, nhận thấy tâm trạng tôi hay thay đổi và tối nào cũng vắng mặt một cách khó hiểu, không tụ tập gia đình, nhưng cũng không hề nghĩ xem tôi đang giấu diếm điều gì.
Giờ đây nó đang đứng phía trước cái ghế bọn tôi ngồi – thế là hơi bị liều đấy, vì bọn lớp lớn thường không thích bọn lớp 8 như David đến ngồi cùng phía bên sân mà chúng coi như là dành cho riêng mình – thằng nhóc cố rắng làm ra vẻ như nó thuộc về nơi này, cứ xem khổ người nặng bốn lăm cân, hàm răng niềng và đôi tai vểnh thì biết, thật chẳng giống người lớn tí nào.
“Chị đã xem cái này chưa?” nó hỏi, giơ một tờ giấy ra, dí trước mũi tôi.
Tôi cầm lấy tờ giấy. Thì ra là một tờ quảng cáo buổi tiệc tắm nóng tổ chức tại số 99 đường Pine Crest vào tối thứ Sáu này. Khách khứa nên mang theo đồ bơi nếu muốn có chút ‘vui vẻ & nóng bỏng’. Còn nếu muốn mặc ‘đồ da’ không thôi cũng vô tư, nhất là nếu họ là phái chân yếu tay mềm.
Trên tờ quảng cáo còn có cả một bức vẽ thô bỉ của một đứa con gái đang ngà ngà say, có bộ ngực to nhúng vào cả một thùng bia.
“Không, em không đi được đâu,” tôi nói, trả tờ giấy lại cho David kèm một cái khịt mũi. “Em còn bé quá. Phải có người nào đó đem nộp cái này cho người chủ nhiệm lớp em chứ. Học sinh lớp 8 không thể tổ chức tiệc tùng kiểu này được.”
Cee Cee cầm lấy tờ giấy từ tay David từ nãy, bèn nói: “Ừm, Suze ơi.”
“Chị không nói đùa đâu,” tôi nói tiếp. “Mà chị cũng thấy ngạc nhiên với em đấy, David. Chị tưởng em phải thông minh hơn chứ. Những bữa tiệc kiểu thế chẳng hay ho tốt đẹp gì đâu. Ừ thì người ta sẽ thấy vui vẻ đấy. Nhưng rất có thể có người sẽ phải đi rửa ruột, chết đuối, vỡ đầu chảy máu, hay gì gì đó. Trước khi có người bị thương thì lúc nào mà chả vui.”
“Suze.” Cee Cee giơ tờ giấy ra trước mặt tôi, cách mũi tôi có vài centimet. “Số 99 đường Pine Crest. Đó là nhà
Tôi giật phắt tờ giấy từ tay cô nàng, há hốc miệng. “David! Em bày ra trò gì thế này?”
“Có phải em đâu,” David kêu lên, giọng nói vốn đã hay run run thì giờ cao vút lên gấp hai, gấp ba. “Trong giờ Xã hội học có người đưa cho em đấy chứ. Brad đã đem rải khắp nơi. Có vài đứa lớp 7 nhặt được, thậm chí cả – ”
Tôi nheo mắt nhìn về phía thằng anh em con dượng tên Brad. Nó đang đứng dựa người vào cột bóng rổ, làm ra vẻ hay ho hấp dẫn lắm, điều đó thì thật khó đối với một thằng con trai mà như tôi thấy vỏ não nó như bị bôi chất WD-40[2] vậy.
“Xin phép,” tôi nói, đứng dậy. “Tôi phải đi giết người đây.” Thế rồi tôi xăm xăm bước tới chỗ sân bóng rổ, tay cầm tờ giấy màu da cam choé loé.
Brad thấy tôi đang đi tới. Tôi nhác thấy nét hoảng hốt vụt qua nét mặt nó khi nó bắt gặp cái thứ tôi đang cầm trong tay. Nó đứng thẳng dậy và cố chạy đi, nhưng tôi quá nhanh. Tôi dồn nó vào cạnh chỗ để nước uống chung cho mọi người, và giơ tờ giấy lên để cho nó nhìn rõ.
“Cậu thực sự nghĩ là,” tôi từ tốn nói, “mẹ và dượng Andy sẽ đồng ý cho cậu tổ chức cái… cái… cái khỉ gió này hả?”
Vẻ hoảng hốt trên mặt Brad chuyển sang thách thức. Nó vênh mặt lên và nói: “Ờ đấy, họ không biết thì sẽ chẳng khó chịu đâu.”
“Brad,” tôi nói. Lắm lúc tôi thấy thương hại cho nó. Thật đấy. Nó đúng là một thằng ngu si mà. “Cậu không nghĩ là họ sẽ để ý khi thò đầu ra ngoài cửa sổ phòng ngủ và trông thấy một lố con gái trần truồng trong cái bồn tắm nóng mới chắc?”
“Không,” Brad nói. “Vì tối thứ Sáu họ làm gì có nhà. Bố được mời đến phát biểu gì đó ở tít tận San Francisco cơ, mà mẹ cậu sẽ đi cùng ông ấy, nhớ chưa?”
Không, tôi chẳng nhớ. Mà thực ra, tôi còn không biết đã có ai nói với tôi hay chưa nữa. Đúng là thời gian gần đây tôi toàn ở trong phòng, nhưng đến nỗi mà không biết gì về một chuyện quan trọng như bố mẹ tôi đi xa trong cả một đêm ấy à? Tôi không nghĩ thế đâu…
“Mà tốt hơn hết là đừng có nói gì cho họ biết,” Brad nói với một vẻ bất ngờ nham hiểm, “không thì cậu sẽ phải hối hận đấy
Tôi nhìn nó như thể nó hoá điên rồi vậy. “Tôi sẽ phải hối hận ấy à?” tôi nói, bật cười. “Ừm, xin lỗi nhé Brad, nhưng nếu ông bố cậu mà phát hiện ra cậu đang nhăm nhe mở tiệc, thì cậu mới là đứa bị cấm túc đến mãn đời, chứ không phải tôi đâu.”
“Không,” Brad nói. Cái vẻ nghênh nghênh thách thức đã chuyển thành nét mặt thậm chí còn ít hấp dẫn hơn nữa, gần như kiểu gian xảo. “Vì nếu cậu dám nghĩ đến chuyện lộ ra bất kỳ điều gì đi nữa, thì tôi sẽ kể cho họ nghe về thằng con trai mà đêm nào cậu cũng lén lút dẫn về phòng đấy.”