Cấm túc.
Đó là hình phạt dành cho bạn ở Trường Truyền Giáo Junipero Serra này, nếu bạn đấm cho thằng anh em con dượng một cú ở giữa sân trường mà tình cờ lại bị giáo viên nhìn thấy.
“Cô không hiểu em bị làm sao nữa, Suze,” cô Elkins nói, cô không chỉ dạy môn Sinh học cho bọn lớp 9, 10 mà đồng thời cũng có trách nhiệm ở lại sau giờ học cùng với bọn vị thành niên phạm tội như tôi đây. “Lại còn vào ngày đầu tiên nữa chứ. Em muốn bắt đầu năm học mới theo cách này hả?”
Nhưng cô Elkins có hiểu gì đâu. Mà tôi thì cũng không thể giải thích cho cô rõ được. Làm sao tôi có thể nói với cô rằng đó chỉ vì đột ngột mọi chuyện trở nên quá sức chịu đựng? Rằng chuyện khám phá ra thằng anh em con dượng tôi lại biết được cái điều mà hàng mấy tháng nay tôi đã phải cố sức để che giấu cả gia đình mình – còn hơn cả chuyện phát hiện ra cái con quái vật xuất hiện trong những giấc mơ đang nhơn nhơn đi lại trong chính ngôi trường của tôi, dưới cái lốt của một tên con trai hấp dẫn trong đồ Abercrombie & Fitch – chính điều kia đã khiến tôi chảy nhũn cả ra như thỏi son Maybelline để dưới nắng vậy.
Tôi không thể kể với cô ấy được. Tôi chỉ in lặng chấp hành hình phạt, nhìn từng phút trên cái đồng hồ cứ trôi qua chậm rề rề. Cả tôi và tất cả bọn tù khác nữa phải đến bốn giờ mới được thả.
“Cô mong rằng,” cô Elkins nói khi cuối cùng cũng hết giờ nhốt, “em đã học được một bài học, Suze. Em cãi nhau, đánh nhau ngay trong sân trường như thế không phải là một tấm gương tốt cho các em lớp bé noi theo, đúng không nào?”
Tôi á? Tôi không phải là một tấm gương tốt á? Thế còn Brad thì sao? Brad mới là kẻ đang nhăm nhe bày ra bữa tiệc kiểu Oktoberfest của chính nó ngay trong phòng khách nhà chúng tôi chứ. Mà Brad lại còn nắm được thóp tôi nữa. Nó biết chuyện rồi.
“Ờ đấy,” nó nói với tôi vào giờ ăn trưa, khi tôi đứng đó trợn mắt nhìn nó, chết điếng cả người, không thể tin nổi cái điều mình vừa mới nghe thấy. “Cứ tưởng cậu ngon ăn lắm hả, dám để một thằng con trai đêm nào cũng lẻn vào phòng, đúng chứ? Mà sao hắn vào được? Qua lối cửa sổ, cái ở trên mái hiên chứ gì? Giờ thì cái bí mật nho nhỏ của cậu tiêu tùng rồi, nhỉ? Thế thì, cậu kín tiếng về bữa tiệc của tôi đi, rồi tôi cũng sẽ kín tiếng về cái thằng Jesse đó.”
Tôi đang quá sửng sốt khi biết tin rằng Brad có thể nghe thấy – đã nghe thấy – về Jesse, đến nỗi cả mấy phút sau tôi cũng không thể nghĩ được một câu nào cho nó ra hồn, trong lúc đó Brad chào hỏi qua lại với những bọn khác trong hội của nó, cái bọn đến đập tay với nó và nói những câu kiểu như: “Bồ tèo! Đến lúc tắm táp rồi. Tao sẽ đến.”
Cuối cùng, tôi cũng xoay xở để mở khoá hàm ra và hỏi: “Ô, thế cơ à? Còn Jake thì sao? Jake sẽ không để cho cậu lôi cái lũ bạn đến mà say xỉn đâu.”
Brad chỉ nhìn tôi như thể tôi bị dở hơi. “Đùa chắc?” nó hỏi. “Cậu nghĩ ai đem bia đến cho bọn này? Jake sẽ lén đem một thùng bia ở chỗ làm đến cho tôi đấy nhé.”
Tôi nheo mắt nhìn nó. “Jake? Jake sẽ đem bia đến cho cậu á? Không thể nào. Anh ta sẽ không bao giờ – ” Rồi sau đó tôi sáng mắt ra. “Cậu trả cho anh ta bao nhiêu?”
“Một con số to tát lắm,” Brad nói. “Bằng đúng một nửa số tiền anh ta đang thiếu để kiếm con Camaro mà anh ta hằng khao khát.”
Tôi biết, Jake sẽ làm gần như mọi điều để chạm được tay vào con xe Camaro. Tôi lúng túng nhìn nó chằm chằm thêm nữa. “Còn David?” cuối cùng tôi hỏi. “David sẽ mách.”
“Không đâu,” Brad nói đầy tự tin. “Vì nếu nó dám nói, tôi sẽ đá đít nó từ đây bay thẳng sang tận Anchorage[3]. Mà cũng đừng có cố bênh nó làm gì, nếu không mẹ cậu sẽ được một câu chuyện mang tên Jesse hay ho phải biết.”
Đúng lúc đó thì tôi đánh nó. Tôi không thể ghìm được. Cứ như thể nắm đấm của tôi tự biết suy nghĩ vậy. Nó đang đặt bên cạnh tôi, thế mà nhoắt một cái đã thụi ngay một phát vào bụng Brad rồi.
Trchấm dứt trong vòng một giây. Thậm chí nửa giây. Thầy Gillarte, giáo viên điền kinh mới, đã kéo hai đứa chúng tôi ra trước khi Brad có cơ hội tung một cú đấm của chính nó vào tôi.
“Đi ngay,” thầy ấy ra lệnh cho tôi với một cú đẩy mạnh trong khi cúi xuống xem xét thằng Brad đang há hốc miệng thở hổn hển như điên.
Thế là tôi biến. Đến ngay chỗ Cha D đang đứng trong sân quan sát người ta quấn đèn nhấp nháy quanh thân một cây cọ.
“Ta biết nói gì với con đây hả Susannah?” ông giận dữ nói khi tôi kể lể sự tình xong xuôi. “Một số người hay để ý hơn những người khác mà.”
“Vâng, nhưng người đó mà là thằng Brad ấy ạ?” Tôi phải hạ giọng nhỏ xuống vì quanh đấy có rất nhiều người làm vườn, tất cả đang làm công việc trang trí cho lễ hội Cha Serra, cái lễ hội sắp tổ chức vào ngày thứ Bảy tới đây, một ngày sau bữa tắm nóng ồn ào của Brad.
“Susannah,” Cha D nói. “Con không thể hi vọng giữ kín chuyện về Jesse mãi được đâu. Rồi gia đình con thế nào cũng biết thôi.”
Cũng có thể. Cái điều tôi không tài nào hiểu nổi là làm sao trong tất cả mọi người thì thằng Brad lại biết được về anh ấy, trong khi những thành viên khác thông minh hơn – ví dụ như dượng Andy hay mẹ tôi chẳng hạn – thì lại hoàn toàn chẳng hay.
Nhưng Max, con chó nhà tôi, thì biết là có Jesse – vì anh ấy nên nó mới không lảng vảng lại gần phòng tôi. Về mặt trí tuệ mà nói thì Brad và con Max có khối điểm chung ấy chứ… cho dù tất nhiên là con Max thông minh hơn chút xíu rồi.
“Cô thực sự mong rằng,” cô Elkins nói khi cuối cùng cô cũng thả tôi và đống bạn tù, “năm nay sẽ không phải gặp lại em ở đây thêm một lần nào nữa nhé, Suze.”
“Cả hai cô trò ta sẽ không phải gặp lại đâu, thưa cô E,” tôi đáp, thu dọn sách vở. Xong rồi tôi chuồn thẳng.
Ngoài kia đang là một buổi chiều nóng bỏng trời trong vắt ở California, nghĩa là mặt trời sáng rực rỡ loá mắt, bầu trời xanh thăm thẳm, và xa xa bạn có thể trông thấy những con sóng bạc đầu trên biển Thái Bình Dương xô bờ Carmel. Tôi đã hết cơ hội nhờ người lái xe đưa về mất rồi – lỡ mất Adam, cậu bạn sẵn sàng chở bất cứ ai đến bất cứ đâu trên chiếc xe thể thao VW Con Bọ màu xanh lá cây, và dĩ nhiên là cả Brad nữa, nó được thừa hưởng chiếc Land Rover từ tay Jake, giờ anh ta đang lái một chiếc Honda Civic cũ rích, nhưng đó là cho đến khi anh ta tậu được cái xe trong mơ mà thôi – và thế là tôi phải đi bộ hai dặm đến số 99 ường Pine Crest. Mà hầu hết toàn phải leo đồi thôi.
Tôi mới đến chỗ cổng trường chưa được bao xa thì người hùng của tôi thò mặt đến. Ít ra thì đó là tôi đoán hắn đang tự cho rằng mình là kẻ như thế. Phải cái là hắn không cưỡi ngựa bạch. Hắn lái một con BMW mui trần màu bạc, mui xe đã hạ xuống rồi. Thật chả có gì lạ.
“Thôi nào,” hắn nói trong khi tôi đứng trước cổng trường, chờ cho đèn giao thông chuyển sang xanh để qua chỗ đường đông đúc. “Lên đi. Tôi sẽ đưa cậu về.”
“Không, cảm ơn,” tôi hờ hững đáp. “Tôi thà đi bộ còn hơn.”
“Suze.” Paul chán nản nói. “Lên xe đi.”
“Không,” tôi đáp. Tôi đã học được một bài học đủ lắm rồi, cái chuyện lên-xe-ngồi-cùng-với-những-kẻ-cố-giết-tôi ấy mà. Và nó sẽ không xảy ra lần nữa đâu. Nhất lại là với Paul, cái kẻ không chỉ cố giết tôi một lần mà còn khiến tôi sợ vô cùng, đến nỗi trong những giấc mơ của tôi cứ tái đi tái lại mãi cảnh đó. “Tôi đã bảo rồi. Tôi sẽ đi bộ.”
Paul lắc đầu, bật cười với chính mình. “Cậu thật đúng là,” hắn nói, “tôi chịu cậu luôn đấy.”
“Cảm ơn.” Đèn chuyển sang xanh, và tôi bắt đầu băng qua ngã tư. Tôi biết rất rõ. Cần gì phải có người hộ tống.
Nhưng mà tôi lại nhận được chính điều đó đấy. Paul lái xe ngay bên cạnh tôi với vận tốc hai dặm một giờ.
“Cậu định đi theo tôi về đến tận nhà chắc?” tôi hỏi khi chúng tôi bắt đầu leo lên con đường dốc, cái tên Carmel Hills từ đó mà ra. Cũng may mà tầm bốn giờ chiều đoạn đường này không có nhiều xe cộ qua lại cho lắm, nếu không thì Paul đã khiến cho mấy người hàng xóm của tôi phát cáu lên rồi, hắn cứ lái xe thế kia thì chắn hết cả con đường độc đạo để đển với thế giới văn minh còn gì.
“Đúng,” Paul nói. “Trừ phi cậu thôi cái cách cư xử đó đi và lên xe.”
“Không, cảm ơn,” tôi lặp lại.
Tôi cứ đi tiếp. Trời thật là nóng bức. Tôi bắt đầu cảm thấy cái áo của mình hơi ẩm mồ hôi rồi đây. Nhưng không đời nào tôi chịu lên xe của tên kia. Tôi chậm chạp lê bước dọc theo con đường, chú ý tránh bất kỳ cái cây nào trông giông giống cây sồi độc, kẻ thù chết người của tôi – là kẻ thù chết người trước khi tên Paul xuất hiện mà thôi – và thầm rủa sả cái quyển Lý Thuyết Phê Phán Từ Thời Plato, cuốn sách mà cứ mỗi bước đi tôi lại thấy nó như nặng hơn vậy.
“Cậu không tin tưởng tôi là một sai lầm đấy,” Paul nói khi hắn bò lên trên đồi trong chiếc ôtô màu bạc bên cạnh tôi. “Chúng ta, cậu và tôi, đều như nhau cả thôi, cậu biết đấy.”
“Tôi thực tâm hi vọng rằng đó không phải là sự thật,” tôi đáp. Thỉnh thoảng tôi thấy rằng, đối với một số kẻ thù thì phép lịch sự có thể làm bọn chúng thoái chí ngang ngửa với một nắm đấm đấy. Cứ thử mà xem.
“Xin lỗi đã làm cậu thất vọng,” Paul nói. “Nhưng đúng là thế đấy. Mà Cha Dominic đã nói gì với cậu? Ông ta bảo cậu đừng có một mình la cà với tôi? Không được tin vào một từ nào tôi nói ra?”
“Không hề,” tôi nói, vẫn bằng giọng xa lạ như thế. “Cha Dominic cho rằng tôi nên tạm thời tin tưởng cậu thì có.”
Đằng sau cái vôlăng bọc da, Paul tỏ vẻ ngạc nhiên. “Thế à? Ông ta đã nói vậy sao?”
“Phải,” tôi đáp, nhác thấy một bụi cây mao lương vàng xinh đẹp mọc bên đường, cẩn thận vòng qua để đề phòng nhỡ chúng có che giấu cái thân cây sồi độc nào thì chết. “Cha Dominic nghĩ rằng cậu đến đây là vì muốn tạo dựng mối quan hệ với những người cũng làm cầu nối duy nhất mà cậu biết. Ông ấy nghĩ rằng, là những con người khoan dung độ lượng, bọn tôi có trách nhiệm cho phép cậu sửa chữa những lỗi lầm và giúp đỡ cậu trên con đường trở thành một con người ngay thẳng, chính trực.”
“Nhưng cậu không đồng tình với ông ta chứ gì?” Paul chăm chú nhìn tôi. Sao lại không? Cứ xem hắn đi chậm thế kia thì có vẻ hắn chẳng cần phải chú ý đến đường đi làm gì.
“Nghe đây,” tôi nói, ước gì có một cái cặp nào đó để cặp hết mái tóc lên. Nó đã bắt đầu dính vào phía sau gáy tôi. Cái cặp tóc đồi mồi mà sáng nay tôi cặp chẳng biết đã biến đi đâu mất rồi. “Cha Dominic là người tốt bụng nhất mà tôi từng biết. Cả đời ông chỉ biết giúp đỡ mọi người. Ông thực lòng tin tưởng rằng con người vốn đều có bản chất tốt đẹp, và nếu được đối xử tử tế, thì họ cũng sẽ cư xử đàng hoàng.”
“Nhưng cậu,” Paul nói, “thì không đồng ý, tôi nói đúng chứ?”
“Tôi nghĩ cả tôi và cậu đều biết rằng Cha Dom là người sống trong thế giới thần tiên.” Tôi nhìn thẳng về phía trước khi leo lên đồi, hi vọng Paul sẽ không đoán được rằng nhịp tim đập thình thình của tôi hoàn toàn không phải vì chuyện đi bộ mà là do hắn đang ở đây. “Nhưng vì không muốn khiến ông ấy thất vọng, nên nhận định của cá nhân tôi về cậu – rằng cậu là một kẻ lợi dụng, một tên thần kinh – thì tôi sẽ giữ kín cho riêng bản thân mà thôi.”
“Một tên thần kinh?” Paul có vẻ thích thú khi nghe người khác nói mình như vậy… thêm một bằng chứng nữa chứng tỏ hắn đúng là tên tâm thần như tôi nghĩ. “Tôi thích cái từ đó đấy. Từ trước tôi bị gọi bằng nhiều tên lắm, nhưng một kẻ thần kinh thì chưa bao giờ.”
“Đấy chả phải câu khen ngợi gì đâu,” tôi buộc phải nói rõ, vì hình như hắn có vẻ hiểu theo cách đó thì phải.
“Tôi biết,” hắn đáp. “Chính thế nên mới khiến nó hay ho thú vị chứ. Cậu ăn nói hay lắm, biết không?”
“Sao cũng được,” tôi bực tức nói. Đến sỉ nhục hắn còn không nên thân. “Có điều này tôi muốn biết.”
“Nói đi,” hắn bảo.
“Cái đêm mà tôi và cậu tình cờ gặp nhau – ” tôi trỏ lên trời “ – cậu biết đấy, ở trên kia kìa?”
Hắn gật. “Ờ. Thì sao?”
“Làm sao cậu lên được trên đó? Ý tôi là, đâu có ai yểm trừ cậu, đúng không?”
Giờ thì Paul nhe răng cười. Tôi chán nản nhận ra rằng mình vừa mới hỏi hắn đúng cái câu mà hắn muốn nghe nhất.
“Đúng, không ai yểm trừ tôi cả,” hắn nói. “Mà cậu cũng chẳng cần có người yểm trừ cậu đâu.”
Câu đó gần như khiến tôi sững người. Tôi đứng chết trân trên lối đi. “Ý cậu bảo rằng tôi có thể đi lên đó bất cứ khi nào tôi muốn?” tôi hỏi hắn, thực sự bị choáng váng.
“Còn có rất nhiều điều cậu có thể làm được, nhưng cậu chưa khám phá ra đấy thôi, Suze ạ,” Paul nói, vẫn còn nhe răng cười. “Những điều mà cậu chưa bao giờ dám mơ tới. Những điều mà tôi có thể chỉ cho cậu thấy.”
Cái giọng nói mượt mà của hắn không lừa được tôi đâu. Paul là một kẻ khiến người khác bị cuốn hút, điều đó đúng, nhưng hắn ta cũng là kẻ nguy hiểm chết người nữa.
“Phải,” tôi nói, cầu mong hắn không nhận ra đằng sau lớp áo hồng kia, trái tim tôi đang đập nhanh đến cỡ nào. “Chắc thế rồi.”
“Tôi nói thật đấy, Suze,” Paul nói. “Cha Dominic là một người vĩ đại. Tôi không phản đối điều đó. Nhưng ông ta cũng chỉ là một người làm cầu nối mà thôi. Cậu còn hơn cả như thế nữa cơ.”
“Tôi hiểu rồi.” Tôi xốc hai vai lên và bắt đầu đi tiếp. Cuối cùng chúng tôi cũng lên đến đỉnh đồi, và tôi bước vào chỗ bóng râm mà mấy cây thông vĩ đại đang toả bóng xuống hai bên đường. Tôi rõ là nhẹ cả người vì cuối cùng cũng thoát khỏi cái nóng. Tôi chỉ ước giá mình cũng thoát khỏi tên Paul dễ dàng được như thế. “Cả đời tôi, người ta cứ nói rằng tôi là thế này, và rồi bất ngờ cậu xuất hiện và nói tôi là thế khác, thế là tôi cứ phải tin cậu chắc?”
“Đúng,” Paul nói.
“Vì cậu thật là một người đáng tin cậy làm sao,” tôi giễu cợt, nghe có vẻ tự trấn an bản thân hơn cả tôi thực sự cảm thấy như thế.
“Vì tôi là tất cả những gì cậu có,” hắn chỉnh lại.
“Thế thì cũng chẳng nhiều nhặn gì cho lắm, hả?” tôi trừng mắt nhìn hắn. “Hay là tôi còn phải nói rõ ra rằng cái lần cuối cùng tôi gặp cậu thì cậu đã khiến tôi mắc kẹt ở địa ngục?”
“Đó không phải là địa ngục,” Paul nói, kèm một cái đảo mắt đặc trưng của hắn. “Mà cuối cùng thì cậu cũng tìm được lối ra đấy thôi.”
“Thế còn chuyện Jesse?” tôi hỏi. Trái tim tôi đang đập thình thình to hơn bao giờ hết, dĩ nhiên vì vấn đề thực sự không phải là cái điều hắn đã làm – hay đã cố làm – đối với tôi, mà là điều hắn làm với Jesse… điều tôi sợ hắn sẽ cố làm một lần nữa.
“Đã bảo là tôi xin lỗi rồi cơ mà.” Paul nói, có vẻ bực bội. “Với lại, cuối cùng thì mọi chuyện đều ổn cả còn gì, đúng chưa? Tôi đã bảo với cậu rồi, Suze. Cậu có nhiều quyền năng hơn cậu biết đấy. Cậu chỉ cần có người cho cậu thấy tiềm năng thật sự trong con người cậu mà thôi. Cậu cần một người hướng dẫn chỉ bảo – một người thực sự ấy, chứ không phải là một ông linh mục sáu mươi tuổi, cái người nghĩ rằng Cha Junipero Nào Đó là người quan trọng số một trong cái thế giới này.”
“Phải lắm,” tôi nói. “Và chắc cậu nghĩ cậu là kẻ đóng vai ông Miyagi trong bộ phim Karate Kid[4] của tôi chứ gì?
“Đại loại thế.”
Chúng tôi đangới chỗ đường vòng đến số 99 Đường Pine Crest, nằm trên một ngọn đồi trông xuống Thung lũng Carmel. Phòng của tôi trông ra phía trước căn nhà, nhìn thấy được biển. Khi đêm xuống, sương mù từ biển thổi vào, nếu tôi để cửa sổ mở thì gần như có thể nhìn thấy sương lùa qua khung cửa cuộn lại thành những luồng mờ ảo. Đó là một ngôi nhà đẹp, một trong những ngôi nhà cổ nhất ở Carmel, trước đây, khoảng năm 1850, nó từng là nhà trọ. Thậm chí người ta cũng không đồn đại gì về chuyện nó bị ma ám nữa cơ.
“Cậu thấy sao, Suze?” Paul thản nhiên khoác một tay qua lưng ghế trống cạnh chỗ hắn ngồi. “Tối nay đi ăn chứ? Tôi đãi? Tôi sẽ nói cho cậu biết về chính bản thân cậu – về chuyện cậu là như thế nào – những điều mà không một ai khác trên đời có thể biết được.”
“Cảm ơn,” tôi nói, ra khỏi con đường, tiến về cái sân nhà rải đầy lá thông, cảm thấy nhẹ người một cách không bình thường. Mà sao lại không? Tôi đã sống sót sau cuộc đụng độ với Paul Slater mà không bị lôi đến một thế giới khác. Đó đúng là một thành công đấy chứ. “Nhưng xin kiếu. Hẹn mai gặp ở trường.”
Rồi tôi bước trên lối đi trải dày lá thông đến chỗ lối đi vào nhà, đằng sau lưng, tôi nghe thấy tiếng Paul gọi: “Suze! Suze, đợi đã!”
Nhưng tôi không đợi. Tôi đi thẳng, hết lối đi lên đến hiên nhà, bước lên những bậc cửa, mở cửa trước và bước vào nhà. Tôi không thèm ngoái lại. Tôi thậm chí không thèm ngoái lại lấy một lần.
“Con về rồi đây,” tôi nói, nhỡ có người nào đó ở tầng dưới quan tâm thì sao. Có đấy. Tôi bị dượng chất vấn một bài, dượng đang nấu bữa tối và có vẻ hào hứng muốn biết hết về “ngày hôm nay của tôi” thế nào. Sau khi kể cho dượng, rồi kiếm cái gì đó trong bếp để bỏ bụng, một quả táo, một lon soda ăn kiêng, tôi leo lên tầng hai, mở tung cánh cửa phòng mình.
Có một hồn ma đang ngồi trên bậu cửa sổ đằng kia. Khi tôi bước vào, anh ấy ngẩng lên nhìn.
“Xin chào,” Jesse lên tiếng.