Tôi không kể cho Jesse nghe về Paul.
Có lẽ tôi nên kể. Có rất nhiều chuyện khác mà lẽ ra tôi nên kể cho Jesse, nhưng thực sự thì tôi chưa có lúc nào để nói c
Chỉ có điều, tôi biết nếu mình mà kể thì chuyện gì sẽ xảy ra: Jesse sẽ muốn xông vào một cuộc đối đầu với tên đó cho mà xem, và rồi kết cục sẽ là có người bị yểm trừ một lần nữa… người đó chính là Jesse chứ không ai khác. Và thực sự tôi nghĩ mình không thể chấp nhận được chuyện đó. Không thể nào lại chấp nhận một lần nữa được.
Vậy nên tôi giữ kín chuyện Paul đột ngột vào học ở Trường Truyền Giáo. Ừ thì, đúng là chuyện giữa tôi và Jesse quả có kỳ quái thật. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi muốn để mất anh ấy đâu nhé.
“Hôm nay đi học thế nào?” Jesse hỏi thăm.
“Tốt cả,” tôi đáp. Tôi sợ phải nói thêm gì lắm. Thứ nhất, tôi sợ mình có thể sẽ lại bắt đầu tông tốc tiết lộ hết cả chuyện tên Paul. Thứ hai, ừm… tôi thấy rằng, nhìn chung, Jesse và tôi càng ít nói chuyện thì càng tốt. Nếu không, tôi toàn lo lắng lảm nhảm những chuyện không đâu. Dù tôi thấy rằng, nói chung thì cái chuyện lảm nhảm như thế cũng giữ không cho Jesse biến đi mất (bây giờ anh ấy toàn thế thôi, cứ khi nào giữa hai bọn tôi im lặng ngượng ngùng không nói gì là anh ấy lại nhanh chóng xin lỗi rồi biến mất luôn) nhưng nó cũng chẳng khiến cho anh ấy có hứng thú ba hoa như tôi. Jesse hầu như không nói năng gì đến mức tôi hết chịu nổi, kể từ…
Ừm, kể từ cái ngày chúng tôi hôn nhau.
Tôi chả hiểu bọn con trai bị làm sao, điều gì khiến cho chúng hôm nay hôn bạn đắm đuối, rồi hôm sau lại cư xử như thể bạn không tồn tại trên đời. Nhưng gần đây tôi bị Jesse đối xử như thế đấy. Chưa đầy ba tuần trước, anh ấy đã kéo tôi lại, ôm tôi trong vòng tay và đặt một nụ hôn lên môi tôi khiến tôi cảm thấy nhũn hết cả người. Tôi như tan ra trong vòng tay anh ấy, thầm nghĩ, sau bao nhiêu thời gian, cuối cùng thì tôi cũng có thể cho anh ấy biết tình cảm thật sự của mình, tình yêu thầm kín mà tôi đã dành cho anh ấy kể từ phút giây – ừm, gần như thế – tôi lần đầu tiên đặt chân vào căn phòng mới của mình và thấy rằng nó đã bị chiếm mất rồi. Cho dù cái người chiếm lấy nó đã trút hơi thở cuối cùng cách đây một thế kỷ rưỡi.
Tôi đoán có lẽ mình phải biết đường mà đừng có yêu một con ma chứ. Nhưng những người làm cầu nối chúng tôi là như thế đấy. Đối với chúng tôi, ma cũng chẳng khác gì người sống cả. Ngoài chuyện bất tử đó ra, thì chả có lý do gì trên đời này khiến Jesse và tôi không thể có chuyện yêu đương nồng cháy đam mê được, nếu chúng tôi muốn, chuyện yêu đương mà tôi đã mơ tưởng đến kể từ cái ngày đầu tiên anh ấy nhất quyết không chịu gọi tôi bằng tên nào khác ngoài tên đầy đủ, Susannah, cái tên mà ngoài Cha Dom ra chả có ai gọi bao giờ
Chỉ có điều, không có chuyện yêu đương nồng cháy nào hết. Sau nụ hôn đầu tiên đó – nụ hôn đã bị đứa em con dượng tôi làm cho ngắt quãng giữa chừng – thì không có thêm gì khác. Thực ra, Jesse đã rối rít nói xin lỗi, rồi hình như cố tình tránh mặt tôi – cho dù tôi đã phải nói rõ ràng với anh ấy là mọi chuyện đều ổn… mà còn hơn cả ổn ấy chứ…
Bây giờ thì tôi không thể không băn khoăn rằng có phải tôi đã quá sốt sắng hay không. Jesse có thể nghĩ tôi là đứa dễ dãi hay sao đó. Ý tôi là, hồi anh ấy còn sống thì đàn bà con gái toàn tát bọn đàn ông nào dám lấn tới như anh ấy. Kể cả những người giống như Jesse đi chăng nữa, với đôi mắt nâu sẫm lấp lánh, mái tóc đen dày, cơ bụng phẳng và những nụ cười sexy không thể cưỡng nổi.
Tôi vẫn thấy thật khó tin khi mà lại có người ghét một anh chàng như thế đến độ phải đi giết anh ấy, nhưng đó chính là lý do mà Jesse đã ám lấy căn phòng của tôi, căn phòng nơi anh ấy đã bị siết cổ cho đến chết, một trăm năm mươi năm trước.
Tình hình đã như thế, tôi thấy thực sự có kể cho Jesse nghe ngày hôm nay của tôi cũng chẳng ích gì. Tôi chỉ đưa cho anh ấy cuốn Lý Thuyết Phê Phán Từ Thời Plato và nói: “Cha Dominic gửi lời chào anh đấy.”
Jesse có vẻ hài lòng với cuốn sách. Thật đúng là cái số tôi xưa nay vẫn thế, đi yêu một tên con trai hứng thú với mớ lý thuyết phê phán hơn là thích trò hôn hít với tôi.
Jesse giở qua cuốn sách, tôi thì dỡ sách vở trong balô ra, để lên giường. Mới có ngày học đầu tiên mà tôi đã bị một đống bài tập đè lên đầu. Năm lớp 11 này đây rồi sẽ đầy những trò vui vẻ mạo hiểm cho xem. Giữa tên Paul Slater và môn Lượng giác, cái nào có thể hay ho hơn chứ?
Lẽ ra tôi nên kể cho Jesse nghe về tên Paul đó. Lẽ ra tôi phải nói kiểu như: “Này, anh đoán thử xem? Còn nhớ cái tên Paul mà anh đã đấm vỡ mũi không? Bây giờ hắn đến học ở trường tôi đấy.”
Bởi vì nếu như tôi cứ coi đó là chuyện bình thường thì có lẽ nó cũng chẳng có gì to tát. Ý tôi muốn nói, ừ thì Jesse ghét cái tên đó – mà anh ấy có lý do chính đáng chứ. Nhưng có lẽ tôi nên bỏ bớt cái chuyện rằng Paul có thể là con trai quỷ Satan đi. Hắn đúng là thích chưng ra cái đồng hồ đeo tay hiệu Fossil lắm. Mà như thế thì sao hắn có thể đáng sợ được nhỉ?
Nhưng đúng lúc tôi gần như lấy hết can đảm để nói: “Ơ, này, cái tên Paul Slater ấy mà, anh còn nhớ hắn không? Sáng nay hắn xuất hiện ở lớp điểm danh của tôi đấy,” thì Brad gào lên ở dưới nhà rằng đến giờ ăn tối
Vì dượng tôi cứ nhất định coi chuyện tất cả mọi người đoàn tụ như một gia đình vào giờ ăn, cùng nhau ngồi bẻ bánh mì là to tát, lúc đó tôi buộc phải rời khỏi bên Jesse – nhưng mà anh ấy cũng có vẻ gì là quan tâm đâu – và đi xuống nhà, nói chuyện với mọi người… đúng là một sự hi sinh to tát, cứ xem lẽ ra tôi đã làm được gì rồi: ngồi đó sẵn sàng chờ đợi thêm những nụ hôn nữa từ người đàn ông trong mơ của tôi.
Tuy nhiên, cũng như bao tối khác, tối nay chẳng có vẻ gì là sẽ có thêm được cái ôm đắm đuối nào cả, thế nên tôi đành ủ rũ bước xuống nhà. Dượng Andy đã làm món bít tết fajitas, một trong những món tủ của dượng. Tôi buộc phải có lời khen ngợi mẹ tôi vì đã tìm được một người đàn ông không chỉ giỏi sửa sang nhà cửa mà còn là một đầu bếp siêu đẳng. Cứ xem hồi mẹ còn chưa tái hôn, chúng tôi toàn phải sống nhờ vào đồ ăn sẵn thì biết, đây chắc chắn là một sự tiến bộ đáng kể.
Tuy thế, cái thực tế rằng Mr. Giỏi Sửa Sang lại có những ba đứa con trai tuổi teen ấy à? Điều đó thì tôi vẫn còn chưa chắc có phải là tiến bộ hay không.
Brad ợ lên khi tôi bước vào phòng ăn. Chỉ có nó mới thành thạo nghệ thuật ợ ra thành hẳn từ ngữ. Cái từ mà nó ợ ra khi tôi vào là “Đồ thảm bại.”
“Đừng có chó chê mèo lắm lông,” câu đốp lại thông thái của tôi đấy.
“Brad,” dượng Andy nghiêm khắc nói. “Ra lấy kem chua vào đây đi.”
Đảo mắt một vòng, Brad rời khỏi chỗ ngồi ở bàn ăn và quay vào trong bếp.
“Chào Susie,” mẹ nói, lại gần và xoa bù đầu tôi một cái trìu mến. “Ngày đi học đầu tiên của con thế nào?”
Trong tất cả những con người trên hành tinh này, chỉ một mình mẹ được phép gọi tôi là Susie. May mắn thay, tôi đã nói ra ngô ra khoai với mấy đứa anh em con dượng rồi, thế nên chúng đố dám cười khẩy khi mẹ gọi như thế nữa.
Tôi thấy có trả lời câu hỏi của mẹ một cách thành thật cũng chẳng để làm gì. Dù sao đi nữa, mẹ cũng không hề biết được một sự thật rằng đứa con gái độc nhất của mẹ lại là mối liên hệ giữa người sống và người chết. Mẹ đâu có biết tên Paul, không biết hắn đã từng cố giết tôi một lần, mà cũng không biết nốt rằng Jesse có mặt trên đời. Mẹ chỉ đơn giản cho rằng tôi là một đoá hoa nở muộn, đoá hoa chẳng ai thèm ngó ngàng mà rồi cũng sẽ đến tuổi trưởng thành và sẽ có hàng dài các chàng theo đuôi. Đối với một người làm nghề phóng viên truyền hìnhù chỉ làm ở một cái đài địa phương đi nữa, thì mẹ quả là một người ngây thơ chẳng hiểu gì.
Nhiều khi tôi thấy ghen tị với mẹ. Sống cuộc sống như của mẹ hẳn phải thoải mái thú vị lắm.
“Cũng được mẹ ạ,” tôi đáp lại câu hỏi của mẹ như thế đấy.
“Rồi ngày mai sẽ chẳng tốt đẹp gì đâu,” Brad cất tiếng khi nó quay lại cầm theo chỗ kem chua.
Lúc đó mẹ đã ngồi xuống ghế ở phía đầu bàn bên kia và đang mở khăn ăn ra. Nhà tôi chỉ dùng khăn ăn bằng vải mà thôi. Lại thêm một điều nữa rất-chất-Andy. Nó khiến ta có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ môi trường sinh thái và khiến cho bữa ăn trông ra dáng kiểu như Martha Steward[5] hơn nhiều.
“Thật à?” Mẹ nói, đôi lông mày (cũng sậm màu giống như của tôi) nhướn lên. “Sao lại thế?”
“Ngày mai bọn con sẽ đề cử những đứa vào ban cốt cán của hội học sinh,” Brad nói, lách mình về chỗ ngồi của nó. “Và Suze phải rời khỏi cái ghế phó chủ tịch.”
Rũ cái khăn ra và điệu đà phủ lên lòng mình – cùng với cái đầu to tướng của Max, con chó nhà Ackerman, cái con mà bữa ăn nào cũng đặt mõm lên đùi tôi, chờ đợi bất cứ thứ gì có thể rơi từ dĩa của tôi xuống, một thói mà giờ tôi đã quen quá rồi nên hầu như chẳng còn để ý gì đến nữa – tôi nói để đáp lại cái nhìn đầy dò hỏi của mẹ: “Con chả hiểu nó đang nói cái gì.”
Brad làm ra vẻ ngây thơ. “Kelly không gặp cậu sau giờ học à?”
Không, vì sau giờ học thì tôi còn bị cấm túc cơ mà, điều đó thằng Brad biết quá rõ còn gì. Dám nói là nó đang cố tình hành hạ tôi một lúc đây.
“Không,” tôi nói. “Sao?”
“Ờ, Kel đã mời một đứa khác cùng đồng hành với nó trong năm học này rồi. Cái tên mới đến, Paul Của-khỉ-gì-đó ấy.” Brad nhún hai cái vai, chỗ mà từ đó cái cổ to của dân cử tạ mọc ra giống như cái thân cây giữa hai phiến đá tảng vậy. “Thế nên con đoán Suze mất chức phó chủ tịch là cái chắc.”
Mẹ liếc tôi lo lắng. “Con không biết gì về việc này sao, Susie?”
Giờ đến lượt tôi nhún vai. “Không ạ,” tôi đáp cũng hay. Con chưa bao giờ thấy bản thân mình hợp với vai trò làm ban cán sự cả.”
Tuy nhiên, câu trả lời đó không mang lại hiệu quả như mong muốn. Mẹ tôi mím môi lại, rồi nói: “Mẹ không thích như thế. Một đứa con trai mới đến mà định lấy mất chỗ của Susie. Thật chẳng công bằng.”
“Có thể là không công bằng thật,” David nói, “nhưng đó là trật tự của mọi thứ theo lẽ tự nhiên thôi mà. Darwin đã chứng minh rằng những loài nào mạnh nhất, thích nghi tốt nhất với môi trường thì loài đó thắng, và Paul Slater lại là một mẫu điển hình có thể chất siêu việt. Con để ý thấy là, bất cứ đứa con gái nào có qua lại với anh ta thì đều có xu hướng rõ ràng là biểu lộ ra những cử chỉ điệu bộ duyên dáng.”
Mẹ tôi nghe câu nhận xét cuối cùng với vẻ khoái tỉ. “Trời ơi,” mẹ dịu dàng nói. “Con thì sao hả Susie? Cậu Paul Slater có khiến cho con biểu lộ ra những cử chỉ điệu bộ duyên dáng không?”
“Không có đâu ạ,” tôi đáp.
Brad lại ợ phát nữa. Lần này nó ợ ra là: “Nói láo.”
Tôi trừng mắt nhìn nó. “Này Brad,” tôi nói. “Tôi không thích thú gì tên Paul Slater hết.”
“Tôi thì lại thấy có vẻ không phải thế,” Brad đáp, “khi sáng nay trông thấy hai đứa các cậu ở lối đi.”
“Nhầm,” tôi cáu bẳn. “Cậu nhầm hết cỡ rồi đấy.”
“Ôi,” Brad nói. “Chịu đi, Suze. Rõ là có chuyện làm dáng ở đây con gì. Trừ phi tóc cậu bôi nhiều mousse tạo kiểu quá đến nỗi mắc cả ngón tay trong đó luôn.”
“Đủ rồi đấy,” mẹ nói, khi tôi hít hơi để phản công lại điều đó. “Cả hai đứa.”
“Tôi không hề thích Paul Slater,” tôi nhắc lại trong trường hợp lúc đầu Brad không nghe thấy tôi nói gì. “Được chưa? Thực ra, tôi còn ghét hắn nữa là đằng khác.”
Trông mẹ có vẻ không hài lòng. “Susie,” mẹ nói, “con làm mẹ ngạc nhiên đấy. Nói mình ghét một ai đó là không được. Mà làm sao con lại ghét cậu bạn đáng thương đó? Con chỉ vừa mới gặp cậu ta ngày hôm nay thôi mà.”
“Nó biết cậu ta từ trước rồi ạ,” Brad tự nguyện tự giác cất tiếng. “Hồi hè ở bãi biển Peeble.”
Tôi qu mắt nhìn nó thêm cái nữa. “Sao cậu biết chuyện đó?”
“Paul kể cho tôi,” Brad nhún vai nói.
Đánh hơi thấy mùi nguy hiểm chết người – giống như rồi Paul sẽ xì ra hết toàn bộ việc cầu nối cầu niếc với cả gia đình chỉ để gây chuyện với tôi ấy mà – tôi bèn cố làm ra vẻ tự nhiên và hỏi: “Ô, thế cơ à? Nó còn kể gì nữa?”
“Chỉ có thế thôi,” Brad đáp. Rồi nó chuyển tông châm chọc. “Hẳn cậu cũng phải ngạc nhiên lắm nhỉ Suze, ngoài cậu ra, người ta còn khối chuyện khác để mà nói chứ.”
“Brad,” dượng Andy từ bếp bước ra, mang theo một khay đựng đầy những lát thịt bò nóng sốt và món bánh tortilla mềm bốc khói nghi ngút, nói với giọng cảnh cáo. “Cẩn thận đấy.” Thế rồi, hạ hai cái khay xuống, dượng liếc cái ghế trống bên cạnh chỗ tôi. “Jake đâu rồi?”
Mọi người nhìn nhau ngơ ngác. Ông anh con dượng tôi còn chưa được ghi nhận là đã mất tích cơ mà. Chả ai biết Jake ở đâu. Nhưng nghe giọng dượng Andy thì tất cả mọi người đều biết, khi nào Jake về, anh ta tiêu đời là cái chắc.
“Có thể là,” mẹ tôi liều nói, “nó chưa tan lớp. Anh biết đấy Andy, đây mới là tuần đầu tiên nó đi học đại học mà. Có thể giờ giấc học hành chưa được ổn định cho lắm.”
“Sáng nay anh đã hỏi nó rồi,” dượng Andy khó chịu nói, “xem nó có về nhà ăn tối đúng giờ được không, và nó bảo có. Nếu về muộn thì ít ra nó cũng phải gọi điện báo một tiếng chứ.”
“Có lẽ nó bận xếp hàng đăng ký thì sao,” mẹ tôi nói giọng an ủi. “Thôi mà, Andy. Anh đã nấu một bữa tối tuyệt vời. Không ngồi xuống và ăn ngay để nó nguội mất thì phí lắm.”
Dượng Andy ngồi, nhưng trông không hề muốn ăn uống gì cả. “Chỉ là,” dượng lại ca bài ca mà chúng tôi nghe phải đến cả trăm lần rồi ấy, “có người đã bỏ công sức khó nhọc ra nấu nướng cho ngon lành, mọi người phải biết điều mà về ăn uống cho đúng giờ chứ – ”
Đúng lúc dượng đang nói câu đó thì cửa trước đóng sầm một cái, và giọng Jake vọng ra từ hành lang: “Bố cứ từ từ đừng nóng, con về rồi đây.” Jake hiểu ông bố quá rõ mà.
Mẹ tôi liếc dượng Andy qua mấy cái bát tô đựng rau diếp thái nhỏ và phomát mà mọi người đang đưa cho nhau. Cái nhìn của mẹ nói rằng: Thấy chưa. Em đã bảo rồi mà.
“Chào cả nhà,” nói, bước vào phòng ăn theo kiểu rùa bò đặc trưng. “Xin lỗi con về muộn. Chờ ở cửa hàng sách lâu quá. Mọi người xếp hàng mua sách đông không chịu được.”
Cái nhìn em-đã-bảo-rồi-mà của mẹ tôi càng sắc hơn.
Dượng Andy chỉ biết cắm cảu: “Con gặp may đấy. Lần này thôi. Ngồi xuống ăn đi.” Rồi, với Brad, dượng bảo: “Đưa món salsa đây.”
Nhưng Jake không ngồi xuống ăn. Thay vào đó, anh ta cứ đứng đấy, một tay đút túi quần jeans, tay kia đung đưa chìa khoá xe. “Ừm,” anh ta nói. “Mọi người này…”
Chúng tôi ngẩng hết lên nhìn anh ta, ngóng chờ một điều hay ho thú vị xảy đến, ví dụ như Jake nói rằng chỗ bán pizza lại thay đổi lịch làm việc của anh ta rồi, và anh ta không thể ăn tối ở nhà được chẳng hạn. Điều này nói chung thường dẫn đến một hậu quả là một vài màn trình diễn quát tháo hoành tráng nổ ra từ dượng Andy.
Nhưng Jake lại nói: “Con dẫn theo một đứa bạn về. Mong rằng không phiền.”
Vì ông bố dượng của tôi thà có cả ngàn người quây quần bên cái bàn ăn nhà tôi còn hơn là vắng mặt chỉ một người, dượng bình thản nói: “Được, được chứ. Nhiều thức ăn mà. Lấy thêm một bộ dao dĩa thìa nữa ở bàn đi.”
Thế là Jake đến chỗ cái bàn dài, lấy đĩa, dao và dĩa, trong khi “bạn” anh ta lò dò lù khù đi vào, hiển nhiên là chờ trong phòng khách, chắc chắn là bị choáng bởi đống ảnh mà mẹ tôi đã treo lên trên khắp mấy bức tường ngoài đó.
Đáng buồn thay, bạn của Jake lại chẳng thuộc phái yếu, thế là lát nữa chúng tôi không thể mong chờ gì trêu chọc anh ta rồi. Tuy thế, Neil Jankow, như Jake giới thiệu, theo như cách nói của David thì anh ta là một mẫu vật thú vị đây. Ăn mặc đàng hoàng sạch sẽ, điều đó khiến anh ta trở nên khác biệt hơn hẳn đa phần đám bạn lướt sóng của Jake. Quần jeans anh ta mặc không sờn rách đâu đó chỗ đùi, mà chính xác ra thì thắt lưng gọn gàng, điều đó cũng khiến anh ta trên cơ phần lớn bọn thanh niên đồng trang lứa rồi.
Nhưng thế không có nghĩa anh ta là một anh chàng hấp dẫn gì. Không hề nhé. Anh ta gầy đến thảm thương, da dẻ thì vàng vọt ốm yếu, mái tóc vàng hơi dài. Nhưng tôi biết mẹ tôi cũng hài lòng về anh ta, vì anh ta lịch sự khủng khiếp, gọi mẹ là bà – như trong câu “Cảm ơn bà rất nhiều vì đã cho phép cháu ở lại dùng bữa tối” – tuy thế, cái điều anh ta ám chỉ (rằng mẹ tôi là người nấu ăn ấy mà) thì lại hơi bị phân biệt giới tính, vì dượng Andy mới là người đã nấu nướng từ đầu đến cu
Thế nhưng, chẳng ai có vẻ gì khó chịu cả, và mọi người dẹp chỗ cho ông trẻ Neil ngồi vào bàn. Anh ta ngồi xuống và theo gương Jake, bắt đầu ăn… không hẳn là hào hứng cho lắm nhưng lời cảm ơn của anh ta có vẻ chân thành. Chúng tôi cũng nhanh chóng được biết rằng Neil học cùng với Jake ở lớp có buổi thảo luận Giới thiệu về nền văn học Anh.
Giống Jake, Neil vừa mới vào học năm thứ nhất ở trường NoCal – tiếng lóng trong vùng gọi Trường đại học Bắc California. Giống với Jake, Neil cũng là người vùng này. Thực ra, gia đình anh ta sống trong thung lũng. Bố anh ta sở hữu một số nhà hàng trong vùng, một, hai trong số đó tôi đã từng đến ăn rồi cơ đấy. Giống Jake, Neil cũng chưa biết chính xác anh ta muốn học chuyên ngành gì, nhưng, lại giống Jake tiếp, anh ta mong rằng sẽ thích học đại học hơn là hồi học cấp 3, vì anh ta đã sắp xếp lịch học sao cho sáng nào anh ta cũng không có tiết để có thể ngủ nướng đến tận trưa, hoặc là nếu chẳng may anh ta tỉnh dậy trước 11 giờ thì có thể tận hưởng vài con sóng ở bãi biển Carmel trước khi lên lớp học tiết đầu.
Đến lúc ăn xong thì tôi có nhiều điều thắc mắc về Neil. Cụ thể là một thắc mắc to đùng. Đó là điều tôi dám chắc nó chẳng khiến ai trong nhà phải bận tâm cả, trừ tôi ra. Và tôi thực sự cảm thấy rằng ít nhất thì anh ta nợ mình một lời giải thích. Nhưng không phải là tôi có thể nói gì được đâu nhé. Không phải với bao nhiêu người xung quanh như thế này.
Đó là một phần của vấn đề. Có quá nhiều người xung quanh. Mà không phải chỉ những người quây quần bên bàn ăn thôi đâu. Không, còn có một người khác nữa bước vào phòng và cứ đứng đó trong suốt bữa ăn, ngay đằng sau ghế Neil ngồi, nhìn anh ta trong câm lặng, cái nhìn đầy hiểm ác.
Tên này không giống với Neil, hắn đẹp trai. Mái tóc sẫm màu và cái cằm chẻ, dám nói là bên dưới lớp vải quần Dockers và áo Polo đen kia, cơ bắp hắn đâu ra đấy… tôi tin rằng hắn ta phải tập tành chăm chỉ trong một thời gian dài thì mới được những cơ bắp tay thế kia, đấy là chưa nói đến cơ bụng mà tôi đoán là hẳn phải đẹp chết người luôn.
Tuy nhiên, đó không phải là điểm khác biệt duy nhất giữa tên này và Neil, anh bạn của Jake. Còn một điều nho nhỏ nữa, như tôi thấy, Neil rõ là đang sống sờ sờ ra đấy, còn cái tên đứng đằng sau anh ta thì… ờ… Đã chết rồi.