"Em muốn anh làm cái gì cơ?"
"Cứ cho em xuống thôi," tôi đáp. "Trên đường anh đi làm ấy. Không ngược đường đâu mà."
Ngái Ngủ nhìn tôi cứ như thể tôi vừa mới gợi ý anh ta ăn thuỷ tinh hay sao đó. "Anh không biết nữa," anh ta chậm rãi nói khi đứng ở cửa, chìa khoá chiếc Rambler trong tay. "Rồi em về nhà bằng cách nào?"
"Một đứa bạn sẽ đến đón em," tôi vui vẻ nói.
Tất nhiên là nói dối trắng trợn. Tôi chả biết về nhà bằng cách nào hết. Nhưng tôi đoán là trong trường hợp bất đắc dĩ thì có thể gọi Adam bất cứ lúc nào. Cậu ta vừa mới lấy được bằng lái và cả một cái xe VW Con Bọ mới cáu. Cậu ta khoái lái xe chết được, có thể đón tôi từ tận Albuquerque nếu mà tôi gọi điện cho cậu ta từ ở nơi ấy. Tôi nghĩ là cậu ta chắc sẽ không thấy phiền cho lắm nếu tôi gọi cho cậu ta từ dinh thự của Thaddeus Beaumont trên đường Seventeen Mile.
Ngái Ngủ trông vẫn còn chưa yên tâm. "Anh chẳng biết nữa..." anh ta nói chậm rãi.
Dám nói là anh ta lại nghĩ tôi đâm đầu vào một vụ tụ tập băng đảng nào đó. Ngái Ngủ dường như chưa bao giờ khoái tôi cho lắm, nhất là từ sau đám cưới của bố và mẹ chúng tôi, khi anh ta bắt gặp tôi hút thuốc bên ngoài sảnh tiếp khách. Điều đó hoàn toàn chẳng công bằng tí ti, vì từ lúc đó đến giờ thì tôi chưa động đến một điếu thuốc nào hết.
Nhưng tôi đoán việc mới đây anh ta bị buộc phải đi cứu nguy cho tôi vào giữa đếm hôm khuya khoắt khi cái con ma đó làm cả một toà nhà sập đè lên người tôi đã chẳng gây dựng được mối quan hệ thân tình tin tưởng hơn giữa bọn tôi. Nhất là khi tôi không thể nói với anh ta về con ma. Tôi nghĩ chắc anh ta tin rằng tôi chỉ là loại con gái suốt ngày bị nhà sập lên đầu thôi.
Chả trách anh ta không thích cho tôi ở trong xe của mình.
"Thôi mà," tôi nói, mở chiếc áo khoác màu lông lạc đà dài đến ngang bắp chân. "Mặc bộ quần áo này thì gặp rắc rối làm sao được cơ chứ?"
Ngái Ngủ nhìn tôi từ đầu đến chân. Thậm chí anh ta cũng phải thừa nhận rằng tôi là hiện thân của sự ngây thơ thánh thiện trong chiếc áo len sợi dệt màu trắng, váy kẻ carô đỏ, giày da không dây. Thậm chí tôi còn đeo cả cây thánh giá bằng vàng là phần thưởng trong cuộc thi viết bài luận về Cuộc chiến năm 1812 ở lớp của thầy Walden nữa. Tôi đoán cái cách ăn mặc thế này sẽ khiến cho một ông già kiểu như ông Beaumont thấy hài lòng: bạn biết đấy, học sinh nữ sành điệu ấy mà.
"Hơn nữa," tôi nói. "Đây là để đi làm việc cho trường mà."
"Thôi được rồi," cuối cùng Ngái Ngủ đành nói, trông như thể anh ta đang ước gì mình được ở một nơi nào khác còn hơn. "Vào đi."
Tôi lẻn ngay vào trong chiếc Rambler trước khi anh ta kịp đổi ý.
Lát sau, Ngái Ngủ chui vào xe, trông buồn ngủ như lúc nào chả thế. Công việc giao pizza của anh ta có vẻ cực tốn thời gian. Hoặc là thế, hoặc là anh ta làm thêm rất nhiều ca. Chắc giờ anh ta có đủ tiền mua chiếc Camaro rồi đấy. Tôi nhắc đến điều đó khi bọn tôi vòng xe ra đường.
"Ừ," Ngái Ngủ đáp. "Nhưng anh muốn cô nàng phải thật bảnh, em biết không? Phải có dàn âm thanh của Alpine, loa của Bose. Đủ hết."
Tôi ghét bọn con trai gọi xe ô tô là "cô nàng", nhưng lại e rằng nó có thể sẽ làm tiêu tan vụ đi nhờ này. Thế nên, thay vào đó, tôi nói: "Ái chà. Hay đấy."
Nhà chúng tôi trên những ngọn đồi ở Carmel, nhìn ra thung lũng và vịnh. Đó là một nơi thật xinh đẹp, nhưng vì lúc đó trời đã tối rồi nên tôi chỉ có thể nhìn thấy bên trong những ngôi nhà bọn tôi lướt qua mà thôi. Những người dân ở California này xây cửa sổ to đùng để hứng trọn ánh nắng, và lúc đêm xuống, khi lên đèn thì bạn có thể nhìn thấy hết họ đang làm gì bên trong nhà, giống y như ở Brooklyn, nơi người ta chả bao giờ thèm kéo rèm xuống hết. Thật là một cảm giác dễ chịu như khi còn ở nhà cũ.
"Mà cái bài này là của môn nào?" Ngái Ngủ hỏi, khiến tôi giật thót. Anh ta cực ít khi nói, đặc biệt là khi đang làm điều gì đó mà anh ta thích, như ăn uống hay lái xe chẳng hạn, đến nỗi tôi gần như quên mất sự có mặt của anh ta rồi.
"Ý anh là sao?" Tôi hỏi.
"Cái bài em đang viết ấy." Anh ta rời mắt khỏi đường đi trong giây lát và nhìn tôi. "Em đã bảo đó là bài tập ở trường, đúng không?"
"À," tôi nói. "Vâng, đúng rồi. Đó là... ờ... một bài em đang viết cho tờ báo của trường ấy mà. Bạn em, Cee Cee, cô ấy là biên tập viên. Cô ấy giao cho em viết."
Ôi, Chúa ơi, tôi đúng thật là cái đồ dối trá. Mà có phải nói dối một lần đâu. Ôi, không. Tôi nói dối chồng chất luôn ấy. Nói cho bạn hay, tôi phát ớn lên rồi đây. Phát ớn.
"Cee Cee à," Ngái Ngủ nói. "Đó là con nhóc bạch tạng em hay lê la ăn trưa cùng, phải không?"
Nếu Cee Cee mà nghe được có người bảo cô nàng là con nhóc thì chắc cô nàng lên cơn tắc mạch cho xem, nhưng thật ra mà nói, vì phần sau câu nói đó của anh ta cũng đúng nên tôi chỉ đáp: "À, ừ."
Ngái Ngủ lẩm bẩm và rồi một lúc rất lâu sau không nói thêm gì nữa. Bọn tôi lái xe trong im lặng, những ngôi nhà rộng lớn với những ô cửa sổ ngập tràn ánh sáng lướt qua loang loáng. Seventeen Mile, con đường cao tốc kéo dài chắc có lẽ là con đường đẹp nhất trên đời. Sân golf Peeble Beach nổi tiếng nằm trên đường Seventeen Mile này, cùng với khoảng năm sân golf khác nữa và rất nhiều thắng cảnh đẹp, như Lone Cypress, cái nơi có loài cây mọc lên từ đá mòn, và bãi Seal Rock chẳng hạn, nơi mà, bạn đoán thử xem, có nhiều hải cẩu cực luôn.
Đường Seventeen Mile cũng là nơi bạn có thể xem những dòng hải lưu giao nhau của Vùng Biển Không Yên Bình, đại dương trải dài theo đường bờ biển ở đây chất chứa đầy những vùng sóng ngầm và sóng dội, đến nỗi không ai dám đi bơi cả. Đó là những con sóng khổng lồ đập ầm ầm và những dải cát bé xíu giữa những tảng đá mòn to vĩ đại, cái nơi mà bọn mòng biển toàn đem thả những con trai và đủ thứ lên đó, mong rằng như thế sẽ làm cho lớp vỏ vỡ ra. Đôi lúc những tay lướt sóng cũng sứt đầu mẻ trán ở đây, nếu mà những kẻ đó ngu si đến độ nghĩ rằng mình có thể lướt được những con sóng ấy.
Và nếu muốn, bạn cũng có thể tậu một dinh thự hoành tráng trên mũi đá trông ra tất cả những cảnh đẹp này, chỉ phải chi có mỗi... ờ... vài tỉ đô thôi mà.
Đó là điều mà hiển nhiên Thaddeus "Red" Beaumont đã làm. Ông ta đã chộp lấy một trong những dinh cơ đó, một căn nhà cực kỳ, cực kỳ hoành tráng, tôi trông thấy khi Ngái Ngủ cuối cùng cũng đỗ ịch ngay trước nhà. Ngôi nhà to đến nỗi còn có hẳn một căn nhỏ cho bảo vệ ở bên cạnh cái cổng vĩ đại đâm lên nhọn hoắt, chắn trước đoạn đường cho xe chạy dài dằng dặc, có một nhân viên bảo vệ ngồi đó xem tivi.
Ngái Ngủ ngó cánh cổng và nói: "Em có chắc đúng là nơi này không đấy?"
Tôi nuốt nước bọt. Từ những điều Cee Cee nói, tôi biết ông Beaumont là người giàu có. Nhưng tôi chưa từng nghĩ đến ông ta lại giàu đến cỡ này.
Và lại nghĩ, con trai ông ta từng mời tôi nhảy điệu slow cơ đấy!
"Ừm," tôi đáp. "Có lẽ em nên xem ông ấy có nhà không trước khi anh đi."
Ngái Ngủ nói: "Ừ, nên thế."
Tôi ra khỏi xe và tiến đến ngôi nhà nhỏ dành cho bảo vệ. Chả cần ngại, nói cho bạn biết luôn, tôi cảm thấy mình như là đứa dở hơi. Cả ngày nay tôi đã cố liên lạc với ông Beaumont, chỉ để được nghe rằng ông ta đang họp, hay đang bận nói chuyện điện thoại. Chẳng hiểu sao tôi cứ nghĩ rằng nói chuyện riêng sẽ hay hơn. Không biết tôi đã nghĩ cái gì nữa, nhưng tôi tin rằng cần phải nhấn chuông và rồi nhìn thẳng vào mặt ông ta một cách vui tươi khi ông ta ra mở cửa.
Giờ đây tôi thấy rằng chuyện đó sẽ không diễn ra như thế.
"Ừm, xin lỗi," tôi nói vào chiếc micro nhỏ ở nhà bảo vệ. Tôi nhận thấy có cả kính chống đạn nữa. Hoặc là có người nào đó không ưa bố của Tad, hoặc là ông ta hơi bị hoang tưởng.
Nhân viên bảo vệ ngẩng lên khỏi cái tivi. Anh ta nhìn tôi từ đầu đến chân. Còn tôi thì nhìn anh ta nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi để mở chiếc áo khoác để chắc rằng anh ta thấy cả chiếc váy carô và đôi giày. Rồi anh ta nhìn ra phía sau tôi, dòm chiếc Rambler. Không hay rồi. Tôi chẳng muốn bị đánh giá qua ông anh con dượng và chiếc xe cũ rích của anh ta đâu.
Tôi gõ gõ vào tấm kính để người bảo vệ chú ý đến mình.
"Chào anh," tôi nói vào chiếc micro. "Tôi là Susannah Simon, học sinh lớp 10 ở Trường Truyền Giáo. Tôi đang viết bài cho tờ báo của trường về đề tài mười người có ảnh hưởng lớn nhất ở Carmel, tôi hi vọng có thể phỏng vấn ông Beaumont, nhưng không may là ông ấy chưa gọi lại cho tôi lần nào hết, mà ngày mai tôi phải nộp bài rồi nên tôi muốn hỏi xem ông ấy có nhà không và có thể cho tôi gặp được không."
Tên bảo vệ nhìn tôi với vẻ mặt sững sờ.
"Tôi là bạn của..." tôi nói, "Tad, Tad Beaumont, con trai của ông Beaumont ấy. Cậu ấy có biết tôi, nên nếu cần, anh có thể hỏi cậu ta kiểm tra tôi qua camera an ninh hay gì đó cũng được, tôi tin là cậu ấy có thể... anh biết đấy... nhận diện tôi ấy mà. Nếu như cần phải thế."
Tên bảo vệ cứ thế tiếp tục nhìn tôi chằm chằm. Người giàu cỡ ông Beaumont thừa tiền thuê một tên bảo vệ thông minh hơn mới phải.
"Nhưng nếu bay giờ không tiện," tôi nói, bắt đầu quay bước đi, "thì có lẽ tôi nên quay lại sau vậy."
Thế là tên bảo vệ làm cái điều phi thường. Hắn ta rướn người ra phía trước, nhấn một cái nút và nói vào loa: "Cưng à, trong đời anh chưa từng nghe người nào nói nhanh như em. Em làm ơn nhắc lại từ đầu được không? Lần này chầm chậm thôi nhé?"
Và tôi lặp lại bài diễn thuyết nho nhỏ, lần này từ tốn hơn, trong khi đằng sau tôi, Ngái Ngủ ngồi sau tay lái, vẫn để máy nổ. Tôi có thể nghe thấy tiếng radio vọng ra ầm ỹ từ trong xe, và Ngái Ngủ thì đang hát theo. Anh ta cho rằng cái ôtô của mình được cách âm khi kéo cửa kính lên chắc.
Giời, anh ta đúng là sai toét.
Sau khi tôi xong bài diễn thuyết lần thứ hai, tên bảo vệ nói, với một nụ cười: "Cô chờ một lát," và quay số chiếc điện thoại màu trắng, bắt đầu nói năng loạn xạ những điều tôi chả nghe thấy gì hết. Tôi đứng đó, thầm ước giá mà lúc trước mình mặc quần bó thay vì quần tất, vì đôi chân tôi đang lạnh cứng trong gió rét thổi từ biển vào, và đang tự hỏi sao tôi lại có thể cho rằng việc này là một ý tưởng hay ho được cơ chứ.
Và chiếc micro vang lên tiếng lạo xạo.
"Được rồi đấy thưa cô," tên bảo vệ nói. "Ông Beaumont sẽ gặp cô."
Và rồi, tôi kinh ngạc trông thấy cánh cổng lớn nhọn hoắt bắt đầu mở ra.
"Ôi," tôi nói. "Ôi, ơn trời! Cảm ơn anh! Cảm ơn - "
Rồi tôi nhận ra tên bảo vệ không thể nghe thấy tôi vì tôi không nói vào cái micro. Thế là tôi chạy ra chỗ chiếc xe và giật cửa ra.
Ngái Ngủ đang giữa chừng đắm chìm trong đoạn guitar nhẹ như không khí bèn tỉnh lại, có vẻ ngượng.
"Thế nào?" anh ta hỏi.
"Thế là," tôi đáp, đóng cửa đánh sầm một cái. "Chúng ta vào. Cứ thả em chỗ nhà đó, được chứ?"
"Được thôi, Lọ Lem."
Phải mất gần năm phút mới đi hết lối đi cho xe chạy. Tôi không nói đùa đâu nhé. Dài đến thế cơ đấy. Hai bên đường có trồng những cái cây to, tạo cảm giác như thể đây là một cái ngõ hẻm nào đó vậy. Một cái ngõ bằng cây cơ đấy. Điều này cũng có vẻ hay ho. Tôi đoán vào ban ngày thì chắc là phải đẹp lắm. Còn thứ gì mà Tad Beaumont không có đâu nhỉ? Hình thức, tiền tài, một căn nhà xinh đẹp...
Thế mà tất cả những gì anh ta cần lại là tôi, bà già nhỏ nhắn dễ thương.
Ngái Ngủ cho xe dừng lại đằng trước lối vào lát gạch, hai bên trồng những cây cọ to vĩ đại, giống kiểu Khách sạn Polynesia ở khu Disney World vậy. Thực tế, toàn bộ nơi này đều mang dáng dấp Disney. Bạn biết đấy, hoành tráng này, lại có vẻ hiện đại và giả tạo. Đèn đóm đều bật hết lên, và ở cuối tất cả các lối đi lát đá, tôi trông thấy cánh cửa kính khổng lồ với một người đang ở phía trong.
Tôi quay qua Ngái Ngủ và nói: "Được rồi, em đến nơi rồi đây. Cảm ơn đã cho em đi nhờ."
Ngái Ngủ nhìn quanh tất cả những đèn đóm, những cây cọ, và đủ thứ khác. "Em chắc chắn có cách về được nhà đấy chứ?"
Em chắc mà," tôi đáp.
"Được rồi." Khi bước ra khỏi xe, tôi nghe tiếng anh ta lầm bầm: "Chưa bao giờ giao bánh đến cái chỗ này."
Tôi chạy nhanh trên lối đi lát gạch, khi Ngái Ngủ lái xe đi rồi, tôi thấy mình nghe được tiếng biển ở đâu đó, cho dù với bóng tối bao phủ bên trên ngôi nhà, tôi không thể nhìn thấy. Khi đi đến cửa thì nó đã mở ra trước khi tôi tìm thấy chuông, một người đàn ông Nhật Bản mặc quần đen và một thứ gì đó trông giống như cái áo dài mặc ở nhà màu trắng, cúi đầu chào tôi và nói: "Mời cô đi lối này."
Trước giờ tôi chưa từng đến nhà nào lại có một người hầu ra mở cửa - chứ đừng nói đến chuyện được gọi là cô - thế nên tôi chẳng biết phải cư xử thế nào. Tôi theo ông ấy đi vào một căn phòng cực kỳ rộng, có những bức tường làm bằng đá thật, trên đó có cả nước nhỏ giọt chảy ra từ những dòng suối nhỏ, tôi đoán chúng là thác nước.
"Tôi cất áo khoác cho cô nhé?" người đàn ông Nhật nói, và thế là tôi bỏ áo khoác ra, cho dù vẫn mang cái túi trong đó thò ra tấm kẹp giấy viết. Tôi muốn mình trông ra dáng mà.
Và người đàn ông Nhật đó cúi mình lần nữa, nói: "Lối này, thưa cô."
Ông ấy dẫn tôi đi về phía một hàng cửa kính trượt, mở ra một cái sân trời dài, có một bể bơi to đùng thắp đèn màu lam trong bóng tối. Trên mặt nước, hơi bốc nghi ngút. Tôi đoán là nước đã được hâm nóng. Giữa sân có một cái đài phun nước và một hòn non bộ, nước chảy ra từ đó, chung quanh trồng đầy cây cối và những bụi hoa dâm bụt. Tôi thầm nghĩ, một nơi đẹp tuyệt vời để thưởng thức sau giờ học với bộ đồ tắm một mảnh Calvin Klein và chiếc xarông của mình.
Rồi sau đó chúng tôi lại vào trong một lối đi trông quá đỗi tầm thường. Đến lúc này người dẫn đường cúi đầu chào lần thứ ba và nói: "Xin cô chờ ở đây," sau đó mất hút đằng sau một trong ba cánh cửa mở ra hành lang.
Thế là tôi làm theo lời ông ấy, cho dù không thể không tự hỏi giờ là mấy giờ. Tôi không đeo đồng hồ vì trước kia có cái nào cũng bị mấy con ma xấu xa đập vỡ cả. Nhưng tôi chỉ định dành mấy phút nói chuyện với ông ta thôi, không hơn. Kế hoạch của tôi là vào nhà, truyền tải thông điệp của người đàn bà đã chết, rồi biến. Tôi đã bảo mẹ là sẽ về nhà lúc 9 giờ, và bây giờ hẳn là phải gần 8 giờ rồi.
Cái bọn giàu có. Họ đâu có thèm quan tâm đến giờ giới nghiêm của những người khác chứ. Thế rồi người đàn ông Nh ật xuất hiện, cúi đầu chào và nói: "Ông ấy sẽ nói chuyện với cô ngay."
Ái chà. Tôi tự hỏi chả biết có cần phải quỳ gối đáp lễ không đây.
Tôi ghìm lại. Thay vào đó, tôi bước qua ngưỡng cửa - và thấy mình đang ở trong một cái thang máy. Đó là một cái thang máy nhỏ xíu, có một cái ghế và một cái bàn trong đó. Thậm chí trên bàn còn có cả một cái cây nữa. Người đàn ông Nhật Bản đã đóng cánh cửa phía sau lưng tôi, và giờ đây chỉ còn lại mình tôi trong căn phòng mà rõ ràng là đang chuyển động. Tôi cũng không biết là nó đang đi lên hay là đi xuống. Trên cửa chả có số má để hiển thị hướng đi lên xuống của cái thứ này. Chỉ có duy nhất một nút bấm...
Căn phòng đã ngừng chuyển động. Khi tôi vươn tay ra cái nắm cửa thì cửa mở. Bước ra khỏi thang máy, tôi thấy mình đang ở trong một căn phòng tối mò mò có những tấm thảm nhung to tướng che phủ các khung cửa sổ, trong phòng có độc một cái bàn vĩ đại, một bể cá còn vĩ đại hơn, và một cái ghế dành cho khách, hiển nhiên là cho tôi rồi, được đặt phía trước bàn. Có một người đàn ông ngồi sau chiếc bàn ấy. Khi trông thấy tôi, người đàn ông đó mỉm cười.
"A," ông ta nói. "Chắc chắn cháu là Simon rồi."