Hoá ra tôi tìm ra hắn ta là ai cũng dễ thôi. Tất cả những gì cần làm là hỏi mọi người vào lúc ăn trưa xem có ai biết gã nào tên Red không.
Nói chung, cũng không dễ đến thế. Tôi sẽ không nói cho bạn biết mình đã phải lục tìm bao nhiêu quyển sổ điện thoại, ngồi bao nhiêu tiếng đồng hồ trên Internet đâu. Đấy là chưa nói đến hàng đống những lời bào chữa khó tin tôi phải nói với mẹ, cố giải thích chuyện cái hoá đơn tiền điện thoại tôi đã tiêu tốn để gọi đến Trung tâm Thông tin. "Con xin lỗi mà, mẹ. Thực sự con phải tìm xem trong bán kính năm mươi dặm có cửa hàng nào có bán giày Manolo Blahnik không..."
Tuy vậy, chuyện này thật quá dễ dàng, đến nỗi tôi gần như nghĩ rằng, Này, có lẽ những chuyện cầu nối kiểu này cũng đâu có quá tệ.
Tất nhiên là lúc đó thôi. Lúc tôi chưa thực sự tìm ra gã Red.
"Có ai biết một người đàn ông tên là Red không?" tôi hỏi đám bạn mình bắt đầu ăn trưa cùng, việc đó tôi nghĩ là rồi sẽ trở thành chuyện thường ngày thôi.
"Có chứ," Adam nói. Cậu ta đang ăn món Cheeto lấy trong một cái túi to đùng. "Có họ là Tide, đúng không? Khoái giết hại bọn rái cá biển và những sinh vật thuỷ sinh khác chứ gì?"
"Không phải Red đó," tôi đáp. "Đây là người cơ mà. Có thể là người lớn. Có thể là người vùng này."
"Là Beaumont," Cee Cee nói. Cô nàng đang ăn bánh pudding trong một cái cốc nhựa. Một con mòng biển béo ú đang ngồi cách cô nàng chưa đến ba chục phân, mắt dán vào cái thìa mỗi lần Cee Cee xúc vào cốc, rồi lại đưa lên miệng. Trường Truyền Giáo không có quán ăn tự phục vụ. Hàng ngày bọn tôi phải ăn ở ngoài trời, cho dù vào tháng Giêng. Nhưng dĩ nhiên, đây đâu phải tháng Giêng ở New York chứ. Ở Carmel này, thời tiết khoảng 20 độ C và trời nắng. Còn ở nhà cũ, theo như Kênh dự báo Thời tiết thì tuyết � Cee�ã rơi dày gần hai chục phân.
Tôi đến California ở được gần ba tuần, nhưng cho đến lúc này thì chưa có một cơn mưa nào hết. Tôi vẫn chờ để khám phá xem chúng tôi sẽ ăn ở đâu nếu mưa vào giờ ăn trưa.
Mà tôi cũng học được bài học nhớ đời về chuyện sẽ xảy ra nếu bạn cho bọn mòng biển ăn.
"Thaddeus Beaumont là tay buôn bán bất động sản." Cee Cee ăn xong món pudding, và bắt đầu chuyển sang quả chuối cô nàng lôi ra từ cái túi giấy đặt bên cạnh. Cee Cee chẳng bao giờ mua đồ ăn trưa ở trường cả. Cô ấy không thể chịu nổi cái món xúc xích bao ngô.
Cee Cee nói tiếp, bóc vỏ quả chuối: "Bạn bè ông ta gọi ông ta là Red. Đừng hỏi mình tại sao lại thế, bởi vì tóc ông ta cũng không phải màu đỏ. Mà tại sao cậu lại muốn biết chứ?"
Đây mới là phần khó nhằn. Bạn biết mà, cái phần tại-sao-bạn-lại-muốn-biết? ấy. Bởi vì, thật sự là, ngoài Cha Dominic, không ai biết gì về tôi. Ý tôi là chuyện cầu nối gì đó. Cee Cee không biết, Adam không. Cả mẹ tôi cũng không. Tiến Sỹ, đứa em con dượng nhỏ nhất có nghi ngờ, nhưng nó cũng không biết. Không biết hết tất cả chuyện đó.
Gina, cô bạn thân nhất của tôi hồi còn ở Brooklyn, có lẽ là người gần gũi nhất trong số những người tôi quen biết được điều đó, mà cũng chỉ vì cô nàng lại có mặt khi Bà Zara, bà thầy bói chuyên bói bài tarot mà Gina bắt tôi đi xem, nhìn tôi với vẻ mặt kinh hoàng và nói: "Cháu nói chuyện được với người đã khuất."
Gina cứ nghĩ thế là hay ho lắm. Chỉ có điều cô ấy chẳng bao giờ biết - cũng không hẳn là mù tịt - điều đó có nghĩa là gì. Dĩ nhiên rồi, bởi vì điều đó có nghĩa là tôi chưa bao giờ ngủ đủ giấc, có những vết thâm tím mà tôi không thể giải thích do bị những người mà chẳng ai nhìn thấy gây ra, và, ồ phải rồi, tôi còn không thể thay quần áo trong phòng ngủ của mình bởi vì hồn ma một trăm năm mươi tuổi của tên cao bồi chết ngoẻo đó có thể trông thấy tôi không mặc gì lắm chứ.
Còn câu hỏi nào nữa không?
Đối với Cee Cee, tôi chỉ nói: "À, chỉ là điều mình nghe được trên tivi thôi mà." Nói dối bạn bè cũng không khó lắm. Tuy nhiên, nói dối mẹ tôi ấy à, thế thì lại hơi bị khoai đấy.
"Đó chẳng phải là tên của thằng con trai cậu khiêu vũ cùng ở bữa tiệc của Kelly hay sao?" Adam hỏi. "Cậu nhớ không Suze. Tad, cái thằng gù bị mất một cái răng và người có mùi kinh khủng ấy? Sau lúc đó cậu đã tiến đến bên mình, vòng tay ôm lấy mình và năn nỉ mình cưới cậu đi để cậu được an toàn khỏi hắn cho đến hết đời mà."
"À, phải rồi," tôi nói. "Là anh ta."
"Đó là bố anh ta," Cee Cee nói. Cee Cee biết hết mọi thứ trên đời bởi vì cô nàng là biên tập viên - kiêm nhà xuất bản, cây bút chủ lực, và phóng viên ảnh - cho tờ Tin Tức Trường Truyền Giáo, tờ báo của trường. "Tad Beaumont là con trai độc nhất của Red Beaumont."
"À há," tôi nói. Giờ mọi thứ sáng sủa hơn rồi đây. Ý tôi là, lý do tại sao người phụ nữa đó lại đến tìm tôi ấy. Rõ ràng bà ta cảm thấy có một mối dây liên hệ với Red qua đứa con trai của ông ta.
"À há cái gì?" Cee Cee có vẻ hứng thú. Mà lúc nào Cee Cee chả có hứng thú cơ chứ. Cô nàng cứ như miếng bọt biển, chỉ có điều thay vì hút nước, cô nàng đi hút tin tức. "Đừng có nói với mình," cô ấy nói, "là cậu "chết" tên con trai bị thịt của ông ta đấy nhé. Ý mình là, anh ta bị làm sao thế không biết? Thậm chí còn chẳng thèm hỏi tên cậu."
Đúng thế. Mà tôi cũng không nhận ra. Nhưng Cee Cee có lý. Tad thậm chí còn chẳng hỏi tên tôi nữa.
May là tôi không thích thú gì anh ta hết.
"Mình có nghe điều tiếng xấu về Tad Beaumont," Adam lắc đầu nói. "Ý mình là, ngoài cái chuyện trong ruột hắn lúc nào cũng có đứa sinh đôi chưa được tiêu hoá hết thì, ờ, cái mặt ngơ ngơ đó chỉ có thể do dùng nhiều liều Prozac mạnh. Mà cậu biết Prozac có tác dụng thế nào đối với sinh lý bọn con trai rồi đấy - "
"Trông bà Beaumont ra sao?" Tôi hỏi.
"Chẳng có bà Beaumont nào hết," Cee Cee đáp.
Adam thở dài. "Sản phẩm của cuộc ly dị," cậu ta nói. "Tad đáng thương. Chả trách hắn ta lại có những cách nhìn nhận về sự ràng buộc như thế. Mình nghe nói lúc nào hắn cũng hẹn hò với ba hay bốn cô cùng một lúc. Nhưng cũng có thể đó là vì hắn nghiện "chuyện ấy". Nghe nói còn có một nhóm mười-hai-bước cho việc đó nữa cơ."
Cee Cee lờ cậu ta đi. "Mình nghĩ là bà ấy mất được vài năm rồi."
"Ô," tôi nói. Liệu có thể nào con ma đã hiện ra trong phòng tôi là người vợ đã chết của ông Beaumont không nhỉ? Cũng có vẻ đáng để thử đây. "Có ai có đồng 25 xu không?"
"Để làm gì?" Adam tò mò hỏi.
"Mình cần gọi điện thoại," tôi đáp.
Thế là bốn đứa trong nhóm cùng ăn trưa bèn đưa cho tôi máy di động. Nói thật đấy. Tôi chọn cái có số nút bấm ít nhất, và quay số tra cứu thông tin, hỏi về danh sách những người có tên là Thaddeus Beaumont. Nhân viên trực nói với tôi rằng chỉ có một cái tên duy nhất mà họ biết là của Tập đoàn Beaumont. Tôi đáp: "Đọc hộ tôi với."
Trường Truyền Giáo dạy từ mẫu giáo cho đến lớp 12, và cái sân chơi nơi bọn tôi ăn trưa phủ đầy những cát, dù tôi không động đến thứ dính dáng đến bọn mòng biển và đủ thể loại khác. Luồn qua những thanh chắn để có được tí chút riêng tư, tôi nói với cô lễ tân, người nhấc máy và nói bằng một giọng vui tươi: "Tập đoàn Beaumont xin nghe. Xin hỏi quý khách cần gì?", rằng tôi cần nói chuyện với ông Beaumont.
"Xin hỏi tôi sẽ báo tên người gọi là gì ạ?"
Tôi ngẫm nghĩ. Tôi có thể nói rằng: "Một người biết chuyện thực sự đã xảy ra với vợ ông ấy." Nhưng vấn đề là, tôi không nói thế. Thậm chí tôi còn chẳng biết chính xác tại sao tôi lại nghi ngờ vợ ông ta - nếu người phụ nữ đó là vợ ông ta thật - đã nói dối, và rằng đúng là Red đã giết bà ta. Nếu mà bạn thử nghĩ xem, thì sẽ thấy việc này chán chết. Ý tôi muốn nói là, tôi còn trẻ thế mà lại rất hay nghi ngờ.
Thế nên tôi đáp: "Susannah Simon ạ," và rồi cảm thấy chẳng mấy tin tưởng. Bởi vì làm sao một người quan trọng như Red Beaumont lại thèm trả lời cuộc gọi của Susannah Simon chứ? Ông ta còn chẳng biết tôi.
Đúng thế thật, cô lễ tân bảo tôi chờ cho một lát, rồi nói: "Ông Beaumont hiện đang có một cuộc gọi khác. Cô để lại lời nhắn được không?"
"Ừm," tôi nói, nghĩ thật nhanh trong đầu. "Vâng. Chị nói với ông ấy... nói với ông ấy em gọi từ tờ báo của Trường Truyền Giáo Junipero Serra. Em là phóng viên, và chúng em đang viết bài về... về mười nhân vật có tầm ảnh hưởng lớn nhất ở Hạt Salinas." Tôi đọc cho cô ta số điện thoại nhà. "Và chị nói với ông ấy gọi sau 3 giờ nhé? Vì lúc đó em mới tan học."
Khi cô lễ tân biết tôi còn là con nít, cô ta thậm chí còn tử tế hơn nữa. "Tất nhiên rồi cưng à," cô ta nói với tôi bằng cái giọng ngọt như mía lùi. "Chị sẽ báo lại với ông Beaumont. Tạm biệt."
Tôi cúp máy. Câu chào tạm biệt khiến tôi bứt rứt. Ông Beaumont sẽ tha hồ mà ngạc nhiên khi ông ta gọi lại cho tôi, và gặp phải Nữ Hoàng Của Bọn Đi Đêm thay vì gặp Lois Lane.
Nhưng vấn đề là ở chỗ, Thaddeus "Red" Beaumont chẳng thèm gọi lại gì hết. Tôi đoán nếu bạn mà là đại tỉ phú thì được một tờ báo trường tí hin bầu là một trong mười người có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Hạt Salinas thì cũng có gì to tát cơ chứ. Tôi quanh quẩn ở nhà cả ngày sau khi đi học về mà chả có ai gọi hết. Hay ít nhất thì không ai gọi cho tôi.
Chẳng biết tại sao tôi từng nghĩ việc này lại dễ dàng lắm nhỉ. Chắc là tôi lại bị đánh lừa bởi cảm giác an toàn giả tạo, bởi cái thực tế là tôi đã xoay xở tìm ra tên của ông ta quá dễ.
Tôi đang ngồi trong phòng mà ngưỡng mộ cái vết thương do cây sồi độc trong ánh chiều tà thì mẹ tôi gọi xuống ăn tối.
Trong gia đình Ackerman này, bữa tối đúng là cả một vấn đề to oành. Nói chung, mẹ đã bảo với tôi rằng mẹ sẽ cho tôi biết tay nếu không thò mặt xuống ăn tối hàng ngày trừ phi tôi báo trước với mẹ là mình đi đâu đó. Chồng mới của mẹ, dượng Andy, ngoài việc là một thợ mộc cừ khôi còn là một đầu bếp siêu đẳng và tối nào cũng nấu những bữa tối thịnh soạn như thế cho mấy đứa con kể từ khi chúng bắt đầu mọc răng hay sao ấy. Cả những bữa sáng Chủ Nhật với bánh kếp nữa. Có cần tôi kể cho bạn nghe cái mùi sirô làm từ cây thích hàng sáng khiến tôi muốn phát ói không? Cho hỏi một câu nhé, chỉ đơn giản là một chiếc bánh mì tròn và phomát kem hay một ít cá hồi xông khói với một miếng chanh và ít nụ bạch hoa giầm, thì có gì không được đâu nào?
"Nó đây rồi," mẹ nói khi tôi lê chân vào trong bếp với bộ quần áo thay ra sau khi đi học về: quần jeans xé tua rua, áo phông lụa đen, và đôi bốt của dân đua xe. Chính cái bộ quần áo kiểu thế này đã khiến mấy đứa anh em con dượng nghi ngờ tôi đang tham gia vào một băng đảng nào đó, bất chấp việc tôi cứ phải nhai nhải phân bua là điều đó không đúng.
Mẹ tôi khiến cho sự xuất hiện trở nên hoành tráng bằng cách tiến đến và hôn lên tóc tôi. Đó là vì kể từ khi mẹ tôi gặp dượng Andy Ackerman - hay còn gọi là Andy Khéo Tay mà mẹ biết được trên chương trình cải tạo lại không gian sống trên truyền hình cáp mà dượng làm chủ xị - cưới dượng, và rồi ép tôi chuyển đến California với mẹ để sống cùng với dượng ấy và ba đứa con trai riêng, mẹ đã hạnh phúc kinh khủng, hạnh phúc đến phát sợ.
Nói bạn hay, giữa chuyện này và cái sirô thích kia, tôi cũng chả biết cái nào đáng buồn ói hơn đây.
"Chào cưng," mẹ nói, xoa tóc tôi bù cả lên. "Ngày hôm nay thế nào?"
"Ơ," tôi đáp. "Vui dễ sợ."
Mẹ chẳng thấy ý châm chọc trong giọng nói của tôi. Mẹ tôi đã hoàn toàn không còn biết châm chọc nữa kể từ khi gặp dượng Andy.
"Thế còn cuộc họp hội học sinh thì thế nào?" mẹ hỏi.
"Vui đến phát rồ luôn."
Đó là Ngu Ngơ, cố làm trò bằng cách nhái giọng tôi.
"Ý con là sao, vui đến phát rồ luôn ấy?" Dượng Andy đang lật bánh quesadilla xèo xèo trên vỉ nướng mà dượng đặt phía trên cái lò. "Chuyện đó thì có gì vui đến thế?"
"Ờ, phải rồi Brad," tôi nói. "Chuyện đó thì có gì vui đến phát rồ lên hả? Có phải cậu và Debbie Mancuso đã chơi trò vờn chân dưới gầm bàn hay sao đó không?"
Ngu Ngơ đỏ hết cả mặt mũi. Cậu ta là dân cử tạ. Cổ cậu ta phải to cỡ đùi tôi. Khi mặt cậu ta đỏ lên thì cổ thậm chí còn đỏ hơn nữa. Trông thật vui mắt.
"Cậu đang nói cái gì đấy hả?" Ngu Ngơ hỏi. "Tôi thậm chí còn không thích Debbie Mancuso."
"Đúng rồi, cậu đâu có ưa," tôi nói. "Thế nên cậu mới ngồi cạnh cô ta lúc ăn trưa ngày hôm nay chứ."
Cổ Ngu Ngơ chuyển sang một màu đỏ như máu luôn.
"David!" Qua cái lò nướng, dượng Andy tự nhiên hét toáng lên điếc cả tai. "Jake! Hai đứa động tay động chân đi chứ. Món súp được rồi đấy."
Hai đứa con khác của dượng Andy, Ngái Ngủ và Tiến Sỹ, lê chân vào. Ờ, chỉ có Ngái Ngủ mới lê. Còn Tiến Sỹ thì hớn hở sải bước. Tiến Sỹ là đứa duy nhất trong số những đứa con của dượng Andy mà tôi có thể nhớ gọi bằng tên thật. Đó là vì với mái tóc đỏ hoe và đôi tai bạnh hẳn ra ngoài thế kia, trông nó như một nhân vật hoạt hình vậy. Thêm nữa nó còn rất thông minh, và tôi thấy nó có tiềm năng giúp tôi giải quyết bài tập về nhà, thậm chí tôi có học trên nó ba lớp đi nữa.
Ngái Ngủ thì ngược lại, đối với tôi, anh ta chả có tí lợi ích gì hết, trừ việc là người tôi đi nhờ xe đến trường và về nhà. Ở tuổi mười tám, Ngái Ngủ có trong tay cả bằng lái và xe, chiếc Rambler cũ thảm hại với bộ khởi động dở tệ, nhưng mà bạn sẽ tự đem mạng sống của mình đặt vào chỗ chết bất kì lúc nào khi bị đi cùng xe với anh ta đấy, bởi vì hầu như anh ta chả bao giờ tỉnh táo thực sự do làm nghề giao bánh pizza vào buổi tối. Anh ta đang tiết kiệm tiền để mua chiếc Camaro, như anh ta thích thú nói với bọn tôi vào những lúc hiếm hoi thực sự biết nói, và tôi có thể chắc rằng cái xe Camaro là tất cả những gì anh ta từng nghĩ đến.
"Cô ta ngồi cạnh tôi đấy chứ," Ngu Ngơ gào lên. "Tôi không thích Debbie Mancuso."
"Đầu hàng điều mơ mộng đó đi," tôi bảo cậu ta khi lướt qua. Mẹ đưa cho tôi bát nước sốt salsa để đem ra bàn. "Tôi chỉ hi vọng," tôi thì thào vào tai cậu ta khi đi qua, "rằng hai người các cậu đã "quan hệ" một cách lành mạnh an toàn vào cái đêm đó ở bữa tiệc bể bơi của Kelly. Tôi chưa sẵn sàng làm cô đâu đấy."
"Im đi," Ngu Ngơ hét vào mặt tôi. "Cậu... cậu... đồ Tay Hủi!"
Tôi áp một bàn tay bị sùi của mình lên trái tim, giả bộ cậu ta vừa mới đâm trúng tim mình.
"Trời ơi," tôi nói. "Thật đau lòng biết bao. Chế giễu khi người khác bị dị ứng mới sắc sảo và thông minh làm sao."
"Ờ phải rồi, đần độn," Ngái Ngủ nói với Ngu Ngơ khi anh ta đi qua. "Chuyện mày và cái con đó thế nào hả?"
Ngu Ngơ không thể chịu nổi nữa, bắt đầu trông có vẻ hết hi vọng.
"Debbie Mancuso," cậu ta gào lên, "và tôi không làm "chuyện ấy"!"
Tôi thấy mẹ và dượng Andy trao đổi thật nhanh một cái nhìn kinh hoàng.
"Dĩ nhiên em mong là không rồi," Tiến Sỹ, đứa em của Ngu Ngơ nói khi lướt qua bọn tôi. "Nhưng nếu mà anh có làm, thì Brad này, hi vọng anh dùng "áo mưa". Nếu sử dụng đúng cách thì "áo" bằng mủ cao su chất lượng tốt có tỉ lệ thất bại là khoảng hai phần trăm, thông thường tỉ lệ thất bại trung bình là khoảng gần mười hai phần trăm. Thế tức là tỉ lệ ngừa thai thành công của chúng chỉ khoảng tám lăm phần trăm mà thôi. Nếu được sử dụng cùng thuốc diệt tinh binh thì hiệu quả tăng đáng kể. Và "áo mưa" là phương pháp phòng vệ tốt nhất của chúng ta - cho dù dĩ nhiên không thể nào tốt bằng việc giữ mình - trong việc ngăn ngừa một số bệnh lây qua đường "quan hệ," gồm cả HIV."
Tất cả mọi người trong bếp - mẹ tôi, dượng Andy, Ngu Ngơ, Ngái Ngủ, và tôi - trố mắt nhìn Tiến Sỹ, cái đứa mà, tôi có nhớ là mình đã nói rồi chứ nhỉ, mới có mười hai tuổi.
"Em," cuối cùng thì tôi lên tiếng, "có quá nhiều thời gian tự do muốn làm gì thì làm rồi đấy."
Tiến Sỹ nhún vai. "Được tìm hiểu trước cũng tốt chứ sao. Dù hiện tại chưa đến tuổi dậy thì, nhưng em mong rằng sẽ sớm thôi." Nó hất đầu về phía cái lò nướng. "Bố, món chimichanga của bố, hay nó tên gì cũng được, đang cháy rồi kìa."
Khi dượng Andy nhảy đến lấy món ăn ra, mẹ tôi đứng đó, và rõ ràng là lần đầu tiên trong đời mẹ không nói được một câu nào hết.
"Cô - " mẹ nói. "Cô... Ôi. Trời."
Ngu Ngơ không để cho Tiến Sỹ nói lời cuối. "Tôi không," cậu ta nhắc lại, "quan hệ với - "
"Ặc, Brad," Ngái Ngủ nói. "Im cái mồm đi được không hả?"
Dĩ nhiên là Ngu Ngơ không hề nói láo. Chính mắt tôi trông thấy bọn họ chỉ chơi trò vờn nhau thôi. Niềm đam mê mãnh liệt giữa Ngu Ngơ và Debbie chính là lý do khiến cho tôi phải bôi thuốc cortisone lên hai tay đấy. Nhưng có anh em con dượng để làm cái gì nếu không lôi ra hành hạ được nhỉ? Dĩ nhiên không phải tôi sẽ đi nói với mọi người điều mình trông thấy đâu đấy nhé. Tôi lắm tính xấu lắm, nhưng không phải là đứa chuyên mách lẻo. Nhưng đừng nhầm: tôi cũng khoái thấy Ngu Ngơ bị bắt quả tang lẻn ra ngoài chơi khi đang bị cấm túc lắm chứ. Ý tôi là, tôi thấy cậu ta gần như chẳng học được bài học nào hết từ lần "bị phạt" đó. Rồi có lẽ cậu ta vẫn cứ gọi anh bạn Adam của tôi là tên pêđê khi gặp lần sau mà thôi.
Nhưng đố dám gọi khi có mặt tôi đấy. Bởi vì, cho dù có là dân cử tạ hay không thì tôi vẫn có thể đá đít Ngu Ngơ từ đây bay thẳng về Đại lộ Clinton, khu phố tôi sống hồi còn ở Brooklyn.
Nhưng tôi không phải là người lôi cậu ta ra trước ánh sáng công lý đâu. Như thế chẳng cao tay ấn, bạn biết đấy.
"Thế con," mẹ tôi hỏi với một nụ cười, "có cảm thấy buổi họp hội học sinh vui phát rồ lên như Brad nghĩ không hả Suze?"
Tôi ngồi xuống chỗ của mình ở bàn ăn. Ngay khi vừa ngồi, Max, con chó nhà Ackerman, lê đến theo và đặt đầu nó lên đùi tôi. Tôi đẩy đầu nó ra. Nó lại để lại như cũ ngay lập tức. Cho dù tôi mới đến sống ở đây chưa được một tháng, Max cũng đã phát hiện ra rằng tôi là người duy nhất trong nhà có nhiều khả năng để lại đồ ăn thừa trên đĩa nhất.
Tất nhiên, giờ ăn là lúc duy nhất con Max để ý đến tôi. Thời gian còn lại, nó tránh tôi như tránh bệnh dịch ấy. Nó đặc biệt tránh xa phòng tôi. Không giống như con người, bọn động vật rất tinh đối với những hiện tượng siêu tự nhiên, và con Max cảm nhận được về Jesse, cứ thế tránh những chỗ trong nhà mà anh ta thường xuyên qua lại càng xa càng tốt.
"Có chứ ạ," tôi nói, hớp một ngụm nước đá. "Vui phát rồ."
"Thế," mẹ hỏi, "ở buổi họp đó người ta đã quyết định điều gì?"
"Con đề nghị huỷ buổi khiêu vũ mùa xuân," tôi nói. "Xin lỗi nhé Brad. Tôi biết cậu đếm từng ngày để được hộ tống Debbie đến đó."
Ngu Ngơ ném qua bàn cho tôi một cái nhìn căm tức.
"Lý do gì," mẹ tôi hỏi, "mà con lại muốn huỷ buổi khiêu vũ hả Susie?"
"Bởi vì phí phạm ngân quỹ vốn đã rất hạn hẹp của bọn con vào cái việc vô nghĩa đó thì thật là ngu ngốc," tôi đáp.
"Nhưng đó là một buổi khiêu vũ," mẹ chống chế. "Hồi bằng tuổi con, mẹ thích những buổi khiêu vũ ở trường lắm."
Tôi muốn nói rằng: đó là vì lúc nào mà mẹ chẳng hẹn hò. Bởi vì mẹ xinh đẹp, tốt nết và bọn con trai thích mẹ. Mẹ đâu phải đứa quái đản bệnh hoạn như con đây, với bàn tay sùi lên và một khả năng bí mật là nói chuyện được với người chết.
Thay vào đó, tôi lại đáp: "Ừm, mẹ chỉ chiếm thiểu số trong lớp thôi. Đề nghị của con đã được ủng hộ và thông qua bởi hai mươi bảy lá phiếu."
"Ờ," mẹ nói. "Thế con định làm gì với số tiền?"
"Bia bọt ạ," tôi nói, lườm Ngu Ngơ một cái.
"Đừng có đùa," mẹ nghiêm khắc nói. "Mẹ đang rất lo về bọn thanh niên uống rượu quanh đây đấy." Mẹ tôi là phát thanh viên viên truyền hình. Mẹ lo phần tin tức buổi sáng ở đài địa phương ngoài vùng Monterey. Điều hay ho nhất ở mẹ là cái vẻ nghiêm trọng khi đọc tin từ cái máy chạy chữ về những vụ tai nạn ôtô thảm khốc. "Mẹ không thích thế. Chẳng giống như hồi còn ở New York. Ở đó, bạn con chẳng có đứa nào lái xe hết, thế nên không có gì to tát. Nhưng ở đây... ừm, ai ai cũng lái xe."
"Chỉ trừ có Suze," Ngu Ngơ nói. Có vẻ cậu ta nghĩ mình có bổn phận nhay lại cái thực tế là dù tôi mười sáu tuổi rồi mà vẫn chưa có bằng lái. Hay thậm chí còn chưa có giấy phép đi học. Cứ như thể chuyện lái xe là cái điều quan trọng nhất trên đời không bằng. Cứ như thể thời gian của tôi còn chưa kín với chuyện học hành, chuyện gần đây tôi được bổ nhiệm làm phó chủ tịch hội học sinh khối 10 ở Trường Truyền Giáo, lại còn phải đi cứu giúp linh hồn lạc lối của những kẻ chết ngoẻo không bằng.
"Các con thực sự định làm gì với số tiền đó thế?" mẹ tôi hỏi.
Tôi nhún vai. "Bọn con phải quyên góp để thay thế bức tượng người sáng lập, Junipero Serra, trước khi Tổng Giám mục đến thăm vào tháng tới."
"Ơ," mẹ nói. "Phải rồi. Bức tượng đó đã bị phá hoại."
Phá hoại. Ờ, phải lắm. Tất nhiên đó là điều người ta đem đi rêu rao khắp nơi. Nhưng bức tượng đó không bị đập phá. Chuyện xảy ra là thế này cơ, cái con ma đã cố giết tôi đã bẻ đầu bức tượng và cố dùng cái đầu như là quả bóng bowling.
Còn tôi thì chính là cái ki để ném.
"Món quesadilla đây," dượng Andy nói, tiến đến bàn với cả cái khay đầy thức ăn. "Ăn luôn khi còn nóng đi."
Thế là bùng lên một trận náo loạn mà tôi chỉ có thể ngồi đó, đầu con Max vẫn trên đùi, nhìn với vẻ kinh hoảng. Khi kết thúc, không còn một mẩu quesadilla nào hết, mà đĩa của tôi và của mẹ vẫn còn trống trơn. Lát sau, dượng Andy nhận thấy điều đó bèn hạ dĩa xuống, tức giận nói: "Này! Các con chưa bao giờ biết đợi cho đến khi mọi người cùng bàn ăn được một miếng đã à?"
Hi��p đển nhiên là chưa rồi. Ngái Ngủ, Ngu Ngơ và Tiến Sỹ ngượng ngùng nhìn xuống đĩa của chúng.
"Con xin lỗi," Tiến Sỹ nói, cầm lấy đĩa của nó, phomát và salsa nhỏ tong tong, đưa về phía mẹ tôi. "Cô ăn phần của con cũng được."
Mẹ tôi trông hơi bị ớn. "Thôi, cảm ơn con, David," mẹ nói. "Cô ăn salad được rồi con ạ."
"Suze," dượng Andy nói, đặt khăn ăn lên bàn. "Dượng sẽ làm cho con món quesadilla nhiều phomát nhất con từng - "
Tôi đẩy đầu con Max ra và đứng lên trước khi dượng Andy rời khỏi ghế ngồi. "Thôi dượng," tôi nói, "dượng đừng bận tâm. Con ăn một ít ngũ cốc, thế cũng được rồi."
Dượng Andy trông có vẻ buồn lòng. "Suze à," dượng nói, "có gì vất vả đâu - "
"Không sao thật mà dượng," tôi nói. "Đằng nào thì tí nữa con cũng tập kickbox, ăn nhiều pho mát thì chỉ khiến con chậm chạp hơn thôi."
"Nhưng," dượng Andy nói, "đằng nào dượng cũng đi nấu thêm mà..."
Trông dượng thật thảm, tôi không còn cách nào khác ngoài nói: "Vậy thì con sẽ ăn một cái. Nhưng bây giờ thì dượng cứ ăn xong đi đã, còn con sẽ đi lấy một ít ngũ cốc."
Vừa nói tôi vừa ra khỏi phòng. Khi đã an vị trong bếp, con Max theo dưới chân - nó không ngốc đâu nhá, nó biết mình chả xơ múi được gì từ những người ngồi đó mà: Tôi là tấm vé để Max đi vào thế giới thức ăn của con người - tôi lôi ra một cái hộp ngũ cốc và một cái bát, rồi mở tủ lạnh lấy ít sữa. Đúng lúc đó tôi nghe thấy một giọng nói nhỏ thì thầm phía sau lưng: "Suze."
Tôi quay ngoắt lại. Chả cần phải nhìn cảnh con Max cụp đuôi chuồn khỏi bếp thì tôi mới biết đến sự có mặt của một thành viên của cái câu lạc bộ độc quyền có tên là Những Kẻ Đã Chết.