Những cảnh tượng mà Clayton tả trong câu chuyện vừa qua của anh gợi lại rõ mồn một trong tâm trí tôi. Phần lớn thời gian, anh ngồi trong cái góc được kiến trúc cố định đó bên cạnh cái vòng xây để sưởi bằng củi tự nhiên. Sanderson ngậm cái tẩu Broseley có khắc tên, sát cánh anh. Còn có Evans, và Wish, một diễn viên nổi tiếng nhưng dung dị nữa. Sáng thứ Bảy đó, tất cả chúng tôi đều đến Câu lạc bộ Mermaid, trừ Clayton là người đêm trước đã ngủ ở đây nên mới gặp chuyện. Chúng tôi chơi golf cho tới tối mịt, không thấy banh, thấy lỗ nữa mới nghỉ. Chúng tôi đang có tâm trạng bao dung thông cảm với người gặp chuyện chẳng lành. Lúc Clayton bắt đầu kể chuyện đó, chúng tôi đều cho là anh la bịa. Cũng có thể là anh bịa ra thật. Đọc xong, độc giả cũng sẽ dễ dàng phán đoán như tôi thôi. Anh kể như một giai thoại đã có thực, nhưng chúng tôi lại cho rằng đó là do tật bịa chuyện không còn cách chữa của anh.
Mới đầu, sau khi quan sát những tia than hồng bốc lên từ khúc củi Sanderson vừa gõ lên:
- Này, các anh biết chỉ có mình tôi ngủ ở đây tối qua?
Wish thêm:
- Còn những người nhà này nữa chứ.
- Nhưng họ ngủ cả ở cánh nhà bên kia. Thôi được…
Clayton nói rồi rít xì gà một lúc, như thể chưa đủ tự tin. Rồi anh nói rất nhỏ:
- Tôi đã gặp một con ma!
Sanderson thảng thốt:
- Anh gặp ma? Thật không? Ở đâu?
Evans, người rất ngưỡng mộ Clsyton và đã sang Mỹ được bốn tuần rồi, cũng la toáng lên:
- Anh đã gặp ma à, Clayton? Tôi khoái chuyện đó lắm. Kể ngay đi.
Clayton nói anh sẽ kể ngay thôi và nhờ Evans đóng cửa lại. Anh nhìn tôi như mong tha thứ:
- Để không ai vô tình nghe được, những tin đồn vê ngôi nhà này có ma sẽ gây xáo trộn dịch vụ hữu ích của chúng ta đang phát đạt. Nhiều chỗ tối và các ván ghép gỗ sồi ở đây liên quan đến việc ma xuất hiện. Anh biết không, đây không phải là con ma xuất hiện thường xuyên. Tôi cho rằng nó không xuất hiện nữa đâu, không hao giờ xuất hiện nữa.
Sanderson hỏi:
- Anh không hẹn gặp nó nữa à?
- Tôi chẳng còn lòng dạ nào mà hẹn gặp nữa.
Sanderson nói là anh rất kinh ngạc. Chúng tôi cười rộ lên. Clayton coi rất khổ não. Anh nhếch mép cười rồi nói:
- Nhưng nó là ma thật mà, tôi chắc chắn như sự hiện hữu của tôi và đang nói chuyện với các anh đây, không hề đùa giỡn. Tôi nói gì là đúng tôi muốn nói vậy.
Sanderson kéo mạnh một hơi thuốc, nhìn Clayton bằng một con mắt đỏ ngầu, rồi phà ra một luồng khói thuốc còn hùng hồn hơn lời nói. Clayton lơ cái cách bình phẩm nghiệt ngã ấy, tiếp:
- Đó là chuyện lạ lùng nhất trong đời tôi. Các anh biết, tôi không hề tin vào ma quỉ hay loại lương tự, trước đây và cả sau này nữa. Thế mà tôi lại gặp con ma ở một góc nhà và tôi hoàn toàn làm chủ tình thế.
Anh trầm lắng suy nghĩ thêm, lấy một điếu xì gà mới ra, dùng một cái kim có hình thù kỳ dị, xoáy một lỗ dọc theo đầu điếu thuốc anh vẫn thích.
Wish hỏi:
- Anh có nói chuyện với nó chứ?
- Chúng tôi nói chuyện khoảng một giờ đồng hồ.
Tôi nhập bọn với đám bạn hồ nghi:
- Anh chủ động nói chuyện với ma?
- Con ma đáng thương đó đang gặp khó khăn. - Anh vừa nói vừa cúi xuống nhìn mẩu xì gà, không hề tỏ ý bực mình.
Một người hỏi:
- Nó có khóc nức nở không?
Clayton nhớ lại và thở phào nhẹ nhõm:
- Trời ơi, có, con ma có khóc. Thật tội nghiệp!
Evans hỏi bằng một giọng Mỹ thật chuẩn xác:
- Anh đập nó vào đâu?
Clayton phớt lờ Evans đi:
- Thật không thể mường tượng được. Ma phải có hình thù, tác phong giống như ma. - Nói rồi anh lại bắt chúng tôi hồi hộp chờ đợi để tìm diêm trong túi, quẹt lên rồi châm thuốc. Sau cùng. anh lại nhớ lại, nói - Tôi hoàn toàn ở thế thượng phong.
Chúng tôi cũng chẳng ai có việc gì gấp, nên cố kiên nhẫn đợi anh rề rà.
- Một cá tính mạnh, dù không có thân xác, con ma vẫn giữ được cá tính của mình. Đó là điều mà chúng ta thường quên mất. Khi còn sống, một người có một năng lực mạnh, có một mục đích nhất định, khi chết sẽ thành ma có những điểm mạnh đó và cũng có một mục đích. Những con ma ám ảnh dai dẳng nhất thường là những con ma có một lý tưởng, bị ám ảnh bởi một đối tượng và cứng đầu như một con lừa, xuất hiện liên tục. Nhưng con ma đáng thương này không như vậy. - Rồi thình lình anh ngước mắt lên, ánh mắt rất kỳ dị, đảo mắt quanh phòng một vòng - Tôi nói với tất cả lòng nhân hậu, sự thực chỉ đơn giản có vậy. Ngay từ cái nhìn thấy nó đầu tiên, tôi đã thấy nó là con ma yếu hèn.
Anh ngắt câu chuyện như thể chấm câu bằng điếu thuốc.
- Các anh biết không, tôi gặp nó trên hành lang dài của dãy phòng bên cánh này. Hắn quay lưng lại tôi nên tôi trông thấy hắn trước. Tức khắc, tôi biết hắn là ma. Hắn trắng và trong suốt. Qua bộ ngực trong của hắn, tôi có thể thấy mờ mờ cái cửa sổ nhỏ ở cuối dãy phòng. Ngoài cái cơ thể vật chất của hắn ra, thái độ của hắn cũng khiến tôi nghĩ ngay là hắn yếu. Hắn nhìn như thể hắn chẳng biết phải làm gì. Một tay hắn chạm vào tấm gỗ trên mặt trước phòng, một tay đưa lên miệng, như thế này!
Sanderson hỏi cho rõ:
- Cơ thể vật lý của hắn như thế nào?
- Gầy nhom, các bạn nhớ, những thanh niên gầy nhom, thường có hai rãnh lõm xuống sau gáy, dài tới lưng, ở những chỗ này này, cái đầu nhỏ, tóc ngắn nhưng dầy và hai cái tai rất xấu. Vai so lại, hẹp hơn cả hông, cổ áo loại bẻ sát xuống, áo vest may sẵn, quần ống rộng, đã sờn hết gót. Tôi thấy hắn như vậy đấy. Tôi lặng lẽ lên lầu. Tôi không cầm nến theo, vì các bạn biết cây nến để trên bàn, đầu cầu thang và còn cái đèn kia nữa. Tôi đang mang đôi dép có đế nghiêng sang một bên. Tới đầu cầu thang tôi lại trông thấy hắn. Tôi đứng khựng lại, chú ý đến hắn. Tôi chẳng sợ hãi chút nào. Trong những trường hợp gặp ma tương tự, tôi nghĩ hầu như người ta không sợ và kinh động đến độ như người ta tưởng. Tôi ngạc nhiên và tò mò. Tôi nghĩ, Chúa ơi, cuối cùng đây là con ma thật! Thế mà trong suốt hai mươi lăm năm qua không hề có giây phút nào tôi tin có ma!
- Hừm! Wish thốt lên.
- Tôi cho rằng tôi vừa lên đến đỉnh cầu thang thì hắn đã thấy tôi ngay. Hắn quay phắt lại đối diện tôi. Thoáng nhìn mắt hắn, tôi thấy hắn là vị thành niên. Cái mũi xẹp, hàng ria ngắn, rậm, cái cằm thon. Chúng tôi đứng im như vậy quan sát nhau một lúc. Rồi như nhớ tới sứ mạng cao cả nào đó, hắn đứng thẳng người lên, nhìn xung quanh rồi đưa mặt về trước, nâng hai tay lên, bàn tay xòe ra - có lẽ đây là điệu bộ lịch sự của ma - tiến đến gần tôi hơn. Trong lúc làm như vậy, hàm hắn trễ xuống, thốt ra tiếng ủa kéo dài như từ xa vọng lại. Không, tiếng hắn thốt ra không khủng khiếp, chẳng dễ sợ chút nào. Tôi đã ăn tối, uống một chai champagne, vì cô đơn tôi uống thêm vài ly whisky, bốn, năm ly gì đó. Tôi cảm thấy vững như bàn thạch. Nếu có chút gì sợ hãi thì cũng không hơn bị một con nhái nhảy vào người. Tôi cũng nói: “Ủa! Vô lý quá, tôi đâu có thấy anh trọ ở dãy này. Anh định làm gì ở đây?” Tôi thấy hắn nhăn mặt.
“U… ả" hắn nói.
- “Ủa cái gì? Đốt anh đi! Anh có là một hội viên quản trị không?” Tôi nói, rồi tỏ ra cóc thèm để ý đến hắn, tôi bước thẳng vào một bên người hắn, để đi đốt nến.
- “Anh có là một hội viên quản trị không?" tôi nhắc lại câu hỏi và liếc xéo hắn. Hắn tránh sang một bên để tôi khỏi đụng vào hắn, và cư xử như chán nản lắm. Vì tôi vẫn trừng trừng nhìn hắn, đợi hắn trả lời.
- “Không, tôi không là hội viên, tôi là một con ma.”
- “Vậy thì anh đâu có quyền điều hành câu lạc bộ Mermaid. Anh muốn gặp ai ở đây hoặc chuyện gì đại loại như vậy?” Tôi hỏi rất cứng để hắn đừng hiểu lầm giữa thái độ bất cần do rượu và thái độ sợ sệt. Đốt nến xong tôi cầm trên tay, soi vào mặt hắn: "Anh làm gì ở đây?” Con ma yếu ớt của một thiếu niên, ngốc nghếch, vô mục đích đã bỏ tay xuống, hết nói ủa , đứng đó ngượng ngùng tuyệt vọng. "Tôi chỉ quanh quẩn ở đây."
Tôi bình thản nói: "Anh chẳng có việc gì mà quanh quẩn ở đây cả."
- Tôi là một con ma! Hắn nói như thể câu đó biện minh cho việc hắn ám ảnh ở đây, như để bào chữa.
- Có thể anh là ma nhưng anh đâu có việc gì mà cứ ám ảnh ở đây. Đây là một hội quán tư, có tiếng tăm. Người ta thường nghỉ ở đây với cả vú em và trẻ sơ sinh. Nếu anh cứ đi luông tuồng như vừa rồi, trẻ em hay phụ nữ có thể gặp anh và họ sẽ sợ chết khiếp chắc là anh chưa nghĩ tới điểm này?
- Thưa ông, không, tôi không nghĩ tới điểm đó.
- Anh phải nghĩ tới điều đó mới được. Anh không có quyền lợi gì trong hội quán này, phải không? Anh không bị giết chết ở đây, hoặc bị cái gì tương tự chứ?
- Không, tôi không bị như vậy, nhưng tôi nghĩ nhà cổ, được ghép lót bằng gỗ sồi…
Tôi nhìn hắn nghiêm khắc:
- “Đó không phải là lý do, anh đến ở đây là lầm”. Tôi nói với một giọng thân mật kẻ cả. Tôi giả vờ xem đã để diêm vào túi chưa rồi ngước lên nhìn hắn thành thật. "Nếu tôi là anh, tôi không đợi tới lúc gà gáy, mà biến đi ngay tức thì."
Trông hắn có vẻ thật bối rối: "Sự thật là... thưa ông."
Tôi nói huỵch toẹt: “Tôi sẽ biến ngay."
“Thưa ông, sự thực là về vài phương diện, tôi không thể."
“Anh không thể biến đi?
“Vâng, tôi không thể biến, vì tôi còn quên một điều gì đó. Tôi đã quanh quẩn ở đây từ nửa đêm hôm qua, nấp trong một cái tủ ở một phòng trống, và các nơi trống. Tôi rúng động. Tôi chưa đi ám ảnh một nơi nào bao giờ. Nơi trống nào tôi định vào đều có cái gì đẩy tôi ra."
"Như có cái gì đẩy anh ra?"
“Thưa ông vâng, tôi cố đẩy mấy lần nhưng nó không chịu ra. Cái gì đó làm tôi trượt và không trở lại chỗ cái tủ được nữa."
- Các anh biết không chuyện của con ma làm tôi rất ngạc nhiên. Hắn nhìn tôi một cách hết sức chán nản đến nỗi, cả cuộc đời tôi chủ trương dùng sức mạnh ăn hiếp người ta, mà cũng không chấp nhận được cái kiểu ăn hiếp quá đáng này. Tôi nói:
"Thế thì quái lạ thật".
Đồng thời tôi tưởng như có ai đang đi ở phía dưới, nên nói:
"Vào phòng tôi và nói cho tôi nghe thêm về chuyện đó."
- Tôi thật chẳng biết chuyện đó ra sao và tôi cố nắm tay hắn. Nhưng giống y như chúng ta cố gắng nắm một làn khói vậy. Chắc là tôi lúc đó quên mất tiêu số phòng của mình, tôi nhớ là tôi đã đi vào mấy phòng ngủ khác, nhưng may mắn là chỉ có một mình tôi ở bên cánh nhà này, mãi cho tới khi tôi thấy dấu hiệu của tôi.
“Ta đến phòng rồi."
- Tôi ngồi xuống ghế sa lông rồi mời:
"Ngồi xuống, rồi nói cho tôi rõ về chuyện đó. Có vẻ như anh bạn tự chuốc lấy chuyện rắc rối rồi”
“Cũng được.”
- Hắn nói hắn không ngồi, hắn thích bay lượn lên xuống trong phòng nếu tôi không phiền. Thế rồi chỉ một lúc sau chúng tôi đã say sưa nói một câu chuyện dài và nghiêm túc. Và khi rượu whisky trong tôi đã nhả, tôi mới thoáng thấy một chút câu chuyện long trời lở đất tôi đang dính vào. Và hắn luôn ở đó, trong mờ, đúng nhà ma thông thường, im lặng trừ cái giọng ma của hắn lúc ở bên phải lúc ở bên trái trong cái phòng cũ xinh xinh, sạch sẽ có treo những màn hoa. Các anh có thể thấy xuyên qua hắn, ánh lóng lánh của cái chân nến bằng đồng đỏ, ánh sáng trên bửng chắn lò sưởi bằng đồng thau, hay các góc cuả khung tranh chạm trổ. Và chính trong phòng đó hắn nói cho tôi nghe quãng đời hèn hạ đau khổ, ngắn ngủi hắn vừa trải qua, trên cõi đời này. Hắn không có một bộ mặt thật lương thiện, nhưng các bạn biết đấy, hắn trong suốt nên không thể không nói thật.
- Ê, vì sao chứ?" Wish cựa mình trong ghế, hỏi.
Clayton hỏi lại
- Cái gì?"
- “… vì trong suốt nên không thể không nói thật”. Tôi không hiểu?
Clayton nói:
- Tôi cũng không hiểu một cách chắc chắn, nhưng sự thật là thế, tôi đoan chắc với anh. Tôi tin là hắn luôn nói thật như Kinh Thánh. Hắn nói cho tôi nghe hắn bị giết chết như thế nào. Hắn đã cầm một cây đèn cầy xuống một căn hầm ở London để tìm chỗ dò khí đốt. Lúc này hắn đang là trưởng bộ môn Anh ngữ trong một trường tư ở London.
Tôi buột miệng thương cảm:
- Tội nghiệp!
- Tôi cũng cho là quá tội nghiệp. Càng nghe hắn nói tôi càng thương cho hắn. Ở đó hắn sống không lý tưởng và cũng chẳng nhắm mục đích nào ở kiếp sau. Hắn nói cho tôi về cha mẹ hắn, về các thầy giáo đồng nghiệp, về các người có chút liên hệ trong cuộc đời ti tiện của hắn. Hắn nói là hắn quá nhạy bén, quá ưu tư lo lắng. Không ai đánh giá anh đúng mức, không ai hiểu anh. Hắn không có người bạn chí thiết nào trong đời, không làm được việc gì đáng gọi là thành tích. Hắn trốn các giờ tập thể dục và thi rớt nhiều kỳ. Hắn nói cũng có nhiều người như hắn, hễ cứ vào phòng thi là hắn quên hết mọi điều đã học. Hắn đã từng đính hôn, nhưng cũng với một người dễ xúc động như hắn. Rồi thì bất cẩn trong vụ xì ga, cuộc hôn nhân đành chia cắt. Tôi hỏi:
"Thế bây giờ anh đang ở đâu? Không ở..."
- Hắn cũng chẳng trả lời được vấn đề này rõ ràng. Câu trả lời của hắn gây cho tôi một ấn tượng mơ hồ, một trạng thái trung gian, nơi đặc biệt dành cho các linh hồn không xác định được sự hiện hữu cụ thể bằng tội hay thánh đức. Tôi cũng chẳng biết sao nữa. Hắn không thể hiện được bản ngã, không quan sát được để tôi có thể mường tượng ra cái nơi, cái thế giới hắn đang sống ở bên kia cuộc đời hữu hình. Chẳng biết hắn ở thế giới nào, nhưng cùng ở chung với những hồn ma có thể đồng cảm được với nhau: những hồn ma trẻ, hèn yếu, có tên thánh ở vùng London. Tập thể này thường nói đến đi ám và những việc tương tự. Đám ma này coi ‘đi ám như một cuộc phiêu lưu lớn, và phần đông các hồn ma loại này luôn thất bại. Các bạn thấy, được biết sinh hoạt như vậy, nên hắn từng đến đây ám.
- Có thật như vậy đấy! - Wish nói vậy, càng thêm cho câu chuyện bốc lửa.
Clayton nói càng thành thật:
- Hắn gây cho tôi cái trạng thái không nắm vào đâu mà nhận định, không thể có một ý kiến riêng. Những điều vừa rồi chỉ là hắn nghĩ hắn đang ở hoàn cảnh như vậy. Hắn vẫn nhởn nhơ bay lên bay xuống, với một giọng thoang thoảng xa xăm, nói về kiếp sống đau khổ của mình, mà chẳng có từ nào xác định, chẳng một câu nào rõ nghĩa, từ đầu đến cuối. Hắn càng ngày càng mong manh như mây khói, nói mơ hồ chẳng đâu vào đâu, so với một con ma thực và sống thực hơn. Các bạn biết, có điều là nếu hắn phá phách như một con ma kinh quái, thì hắn đã không được vào phòng tôi. Tôi sẽ tống cổ hắn ra ngoài.
Evans đã hết ngạo nói:
- Đúng thế, cũng có những người lúc sống như vậy.
Tôi cũng hùa theo công nhận:
- Như vậy trong bọn ma cũng có những con giống hệt chúng mình đây.
- Các bạn thấy, điểm có lý đối với hắn là thực tế hắn đã nhận ra mình. Cái mớ bòng bong rối rít hắn tạo ra khi đi ám, đã làm hắn thất vọng não nề. Các con ma khác đã nảo với hắn đi ám chỉ là cuộc rong chơi hồi hộp. Hắn tin ngay đây chỉ là cuộc rong chơi mạo hiểm một chút. Thế là hắn lại thất bại thêm một lần nữa. Hắn tự cho mình là đã thất bại hoàn toàn. Hắn nói, và tôi tin là thực, suốt lúc sinh thời, hắn chẳng làm việc gì được suôn sẻ, mà không gây rắc rối; và bây giờ, trong cõi u minh bất tận hắn cũng sẽ chẳng làm được gì. Nếu có những ma khác thông cảm giúp đỡ, may ra... Hắn ngừng ở đó và nhìn tôi chằm chằm. Tôi rất ngạc nhiên khi hắn nhận xét rằng chưa ai cho hắn một chút thương cảm như tôi đang làm với hắn. Tôi hiểu ngay hắn muốn gì và quyết định tống cổ hắn đi ngay. Các anh biết đấy, làm như vậy thật tàn nhẫn, nhưng là NGƯỜI BẠN THÂN THIẾT DUY NHẤT, người được tín nhiệm của một hồn ma yếu hèn, một người trần mắt thịt như tôi không thể chịu đựng được. Tôi đứng bật dậy:
"Anh không thấy anh đã suy nghĩ quá nhiều về việc này hay sao? Việc anh phải làm là thoát khỏi cảnh này ngay, thoát ngay”.
- Lấy lại bình tĩnh, thu mọi can đảm. “Thoát!" Hắn nói: "Tôi - không thể."
- Tôi nói mạnh: "Anh phải cố xem"
- Và hắn đã cố làm được.
Sanderson thẫn thờ thốt lên:
- Cố! Bằng cách nào?
- Múa tay.
- Múa tay là sao?
Một loạt những cử chỉ, điệu bộ phức tạp và khoa tay. Đó là cách thức hắn đến và hắn cũng phải đi ra bằng cách đó. Trời ơi, tôi gặp chuyện thật rắc rối!
Tôi hỏi:
- Nhưng làm sao một loạt điệu bộ múa tay mà...
Clayton quay sang tôi và nhấn mạnh vài chữ khi nói:
- Ôi, anh bạn, cái gì bạn cũng đòi hỏi rõ ràng. Tôi không biết hắn biến theo cơ chế nào. Tôi chỉ biết người ta làm vậy, hắn đã làm như vậy. Sau một khoảnh khắc dễ sợ, hắn đã múa đúng và đột nhiên biến đi.
Sanderson nói chậm rãi:
- Anh có quan sát kỹ những điệu múa không?
- Có. - Clayton nói rồi cố nhớ. - Rất kỳ lạ. Chúng tôi ở đó, tôi và con ma mong manh sương khói, ở trong căn phòng yên tĩnh đó, trong cái hội quán vắng khách, tĩnh lặng này, vào một đêm thứ Sáu ở cái tỉnh lẻ bình lặng này. Không một tiếng động trừ giọng nói của chúng tôi và tiếng phều phào khi hắn chao lượn. Chỉ có một cây đèn cầy cạnh cửa phòng và một cây trên bàn trang điểm, lâu lâu một trong hai cây lại phụt lên thành một ngọn lửa dài. Rồi chuyện kỳ diệu xảy ra. Hắn nói “tôi không thể, tôi không bao giờ...” Thình lình hắn ngồi thụp xuống cái ghế đẩu ở cuối giường, bắt đầu khóc nức nở. Trời ơi! hắn nhõng nhẽo khó chịu quá!
“Anh phải bình tĩnh, thu hết mọi can đảm," tôi nói rồi vỗ lưng hắn để khuyến khích, và cái bàn tay chết tiệt của tôi xuyên thấu vào người hắn. Các anh biết, vào lúc đó, tôi hầu như không còn hung hăng kịch cảm như lúc ở đầu cầu thang. Tôi cảm thấy sự kỳ diệu thật đầy đủ. Tôi còn nhớ tôi kéo tay ra khỏi người hắn mà rùng mình. Tôi bước sang bàn trang điểm và bảo hắn: "cố bình tĩnh và biến”. Để khuyến khích và giúp đỡ hắn, tôi cũng múa may đôi tay.
Sanderson thốt lên:
- Sao, anh cũng khoa tay như hắn?
- Vâng, các điệu bộ.
Tôi xen vào:
- Nhưng... - rồi im bặt vì một ý thoáng qua đầu tôi rồi tôi quên khuấy mất.
- Chuyện ngộ đấy. - Sanderson thọc ngón tay vào nỏ tẩu, nhịp nhịp - Anh muốn nói là con ma của anh chịu thua?
- Hắn cố tình làm như thể lỡ dịp vượt qua các rào cản vô hình rối tinh đó chứ gì?
Wish phản bác:
- Không, hắn không làm vậy. Hắn không thể biến đi được. Hoặc chính anh cũng phải có mặt ở đó mới phán đoán được.
Tôi chụp lấy cơ hội vì cái ý thoáng qua đầu tôi đã được diễn tả bằng lời:
- Chính thế đấy.
Clayton đang nhìn đăm chiêu vào đống lửa, xác nhận:
- Chuyện đúng là vậy.
Căn phòng chìm vào im lặng một lúc.
Sanderson lên tiếng:
- Và cuối cùng hắn đã biến đi được?
- Sau cùng hắn đã biến được. Tôi đã phải thúc giục hắn kiên trì và hắn biến khá thình lình. Hắn thất vọng. Chúng tôi gây gổ. Rồi hắn bất chợt đứng dậy và yêu cầu tôi múa may lại từ đầu để hắn nhìn. Hắn nói: “Tôi tin là nếu được coi lại tôi sẽ nhận ra chỗ sai sót của tôi ngay." Hắn nhận ra ngay vì hắn nói: "Tôi biết rồi." Tôi hỏi hắn biết cái gì, hắn chỉ nhắc lại tôi biết rồi. Ngay sau đó hắn nói cuống cuồng: "Tôi không thể biến được nếu ông cứ nhìn tôi. Thật sự tôi không làm được. Từ trước tới nay, tôi không làm được việc cũng vì người ta cứ nhìn tôi. Tôi luôn bồn chồn mất tự chủ, đến độ ông nhìn tôi là tôi không lập trung được." Thế là chúng tôi lại tranh luận một hồi. Dĩ nhiên là tôi muốn nhìn xem hẳn biến, nhưng hắn vẫn ngang nghạnh như một con lừa. Hắn làm tôi mệt nhoài. "Thôi được, tôi không nhìn anh nữa." Tôi quay về phía chiếc gương trên tủ ở cạnh giường.
Hắn bắt đầu ngay điệu bộ và múa tay. Tôi nhìn vào tấm gương soi xem hắn có vấp váp chỗ nào không. Cánh tay quay tròn và bàn tay, như thế này, thế này, và thật nhanh tiến đến điệu múa cuối cùng, giang hai cánh tay ra, đứng thẳng thế này. Các bạn biết không, hắn đứng vào rồi hắn không đứng, hắn không đứng đó, hắn không còn ở đó nữa! Tôi xoay người khỏi tấm gương để nhìn hắn. Chỗ hắn đứng chẳng còn gì. Tôi chỉ còn một mình cùng ngọn đèn cầy leo lét và cái đầu quay cuồng choáng váng. Cái gì đã xảy ra? Có cái gì xảy ra không? Hay chỉ là tôi mơ...? Và rồi như một tiếng chấm dứt hẳn chuyện đó, chiếc đồng hồ trên đầu cầu thang gõ một giờ, thế đấy, boong! Thế rồi tôi vừa nghiêm khắc vừa nhân từ như một thẩm phán, tất cả những champagne và whisky tôi nốc buổi tối đã tan loãng làm đầu óc tôi thanh thản. Cái cảm giác kỳ diệu, thứ kỳ diệu choáng ngợp không thể hiểu được trời ạ!
Clayton nhìn cái tàn xì gà một lúc rồi nói:
- Chuyện xảy ra chỉ có vậy.
Evans gợi thêm:
- Sau đó anh đi ngủ à?
- Còn gì làm ở đó nữa đâu mà không đi ngủ?
Tôi nhìn vào mắt Wish. Chúng tôi muốn pha trò câu chuyện này, nhưng có một cái gì đó, có lẽ ở trong giọng nói và thái độ của Clayton không cho phép chúng tôi giễu cợt.
Sanderson gợi thêm:
- Còn những điệu bộ múa may anh có nhớ không?
- Tôi tin là bây giờ tôi múa lại được.
- Vậy sao? - Sanderson nói rồi mở con dao nhíp nạo sái thuốc trong nõ điếu ra - Sao anh không thử múa xem? - Tiếng anh đóng lưỡi dao cái “rắc”…
- Tôi sẽ múa đây.
Evans khích thêm:
- Múa cũng không biến được đâu.
Tôi có ý kiến:
- Nếu nó linh nghiệm thì…
Wish duỗi chân ra như thể cản Clayton đừng múa:
- Tốt hơn là đừng múa.
Sanderson trấn an:
- Anh ấy có múa đúng được đâu mà sợ. - Vì mãi chuyện anh nhồi thuốc quá đầy vào cối.
Wish không đổi ý:
- Đúng hay không cũng thế thôi, đừng múa là hơn.
Chúng tôi tranh luận với Wish, anh nói rằng múa lại những điệu bộ đó có khác chi nhạo báng một chuyện nghiêm túc. Tôi nói:
- Nhưng anh cũng có tin đâu.
Wish liếc nhìn Clayton đang trầm ngâm nhìn ngọn lửa, cân nhắc điều gì đó trong đầu rồi mới nói: "Tôi tin chứ, tin hơn một nửa. Thế cũng là tin rồi.
Tôi nói:
- Anh Clayton này, anh không bịa chuyện gạt chúng tôi, các chi tiết đều có lý. Nhưng còn chuyện biến đi. Chỉ ngẫu nhiên mà có tính thuyết phục thôi. Có phải chuyện đầu voi đầu chuột không?
Anh đứng phắt dậy, ra đứng giữa thảm, đối mặt với tôi. Anh nhìn vị trí chân anh, nghĩ ngợi một lúc rồi dán mắt vào bờ tường đối diện suốt thời gian còn lại, với vẻ mặt chăm chú căng thẳng. Anh từ từ đưa hai tay lên ngang mày và bắt đầu...
Vì Sanderson là một hội viên Hội Tam Điểm, thuộc Lan the Four Kings, đã miệt mài chuyên nghiên cứu và làm sáng tỏ các bí ẩn của hội Tam Điểm trong quá khứ và hiện tại. Sanderson cũng là một người nghiên cứu không tồi. Anh theo dõi các động tác của Clayton đặc biệt chăm chú với cặp mắt đỏ ngầu. Khi Clayton múa xong, anh nhận xét:
- Anh biết không, xét mọi mặt, anh đã múa được tuyệt hảo, nhưng chỉ sai một chi tiết nhỏ.
- Tôi biết, tôi có thể nói tôi múa sai chỗ nào.
- Nói xem?
- Chỗ này.
Clayton làm động tác vặn tay, uốn éo rồi hất lên.
- Đúng, sai chỗ đó.
- Các anh biết không, chính chỗ đó hắn không múa được đúng. Nhưng tại sao anh...?
- Phần lớn chuyện này và đặc biệt là anh sáng tác nó như thế nào, tôi chẳng hiểu tí gì. Nhưng ở chính đoạn múa đó thì tôi hiểu. Nó là một loạt điệu bộ có liên hệ tới một chi nhánh bí hiểm của Hội Tam Điểm. Chắc là anh biết nhánh đó nếu không sao anh lại...
Anh suy nghĩ xa hơn rồi nói:
- Tôi nghĩ rằng chỉ cho anh vặn tay đúng cũng chẳng hại gì. Tóm lại nếu anh biết rồi thì anh vẫn đã biết; nếu anh chưa biết thì vẫn là chưa biết.
Clayton xác định:
- Tôi chẳng biết gì hơn những điều con ma tội nghiệp làm tối qua.
- Thế thì được. - Sanderson nói rồi để cái điếu đất nung linh thiêng của anh lên bệ lò sưởi. Anh nhanh nhẹn múa vài điệu bộ.
Clayton lặp lại:
- Phải vậy không?
Sanderson nói:
- Đúng rồi." lại cầm cái điếu trong tay.
Clayton hoan hỉ:
- Giờ đây tôi có thể múa may đúng hết.
Anh đứng thẳng trước đống lửa đang lụi dần, mỉm cười với chúng tôi. Tôi thấy có chút ngượng ngùng trong nụ cười ấy.
- Nếu tôi bắt đầu...
Wish phản đối:
- Nếu là anh, tôi sẽ không...
Evans khích:
- Đừng lo gì hết, bài múa đó thì có hại gì. Đừng nghĩ là cái điệu múa cà giựt uốn éo đó, lại có thể hất văng Clayton sang thế giới bóng tối được à? Bạn có thể cứ múa thử, Clayton. Tôi chỉ sợ bàn tay anh rời khỏi cổ tay thôi.
- Tôi không tin là không hại.
Wish đứng dậy, đặt tay lên vai Clayton. Dẫu sao anh cũng làm tôi tin một nửa câu chuyện của anh và tôi không muốn chuyện tương tự xảy ra.
Tôi nói:
- Vậy là Wish đã sợ rồi?
- Vâng, tôi sợ thật."
Wish nói rất nghiêm trang, hoặc là anh sợ thật, hoặc anh đóng kịch đại tài.
- Tôi tin rằng nếu anh ấy làm những điệu bộ múa đúng, anh ấy sẽ biến mất.
Tôi cao giọng:
- Anh ấy sẽ chẳng biến đi được đâu. Đàn ông chỉ có một cách duy nhất biến mất khỏi cõi đời, và Clayton còn cách lúc đó ít ra là ba, bốn chục năm. Ngoài ra... và với một con ma như hắn! Anh nghĩ rằng...
Wish ngắt lời tôi bằng cách đứng dậy, len lỏi qua hàng ghế đến đứng ở cạnh bàn, rồi nói:
- Clayton, anh điên rồi!
Clayton với ánh mắt giễu cợt, mỉm cười với anh rồi nói:
- Wish nói đúng, còn các anh sai hết. Tôi sẽ biến. Tôi sẽ múa hết bài này và đến đoạn nhanh dồn dập kết thúc và "hấp" tôi sẽ biến như một hơi gió thoảng. Trên thảm này chẳng có ai, phòng này sẽ tràn ngập kinh dị và một người nặng chín mươi lăm ký như tôi sẽ lao vào cõi u minh. Tôi quả quyết như vậy và các bạn sẽ phải tin thôi. Tôi không muốn tranh luận gì thêm. Để chúng ta làm thử xem.
Wish nói:
- Không. - bước lên một bước rồi ngừng.
Clayton đã đưa hai tay lên bắt đầu múa may ma quái. Lúc đó chúng tôi ở trong tình trạng căng thẳng tột độ, phần lớn do thái độ của Wish, ngồi bất động dán mắt vào Clayton. Tôi cảm thấy như một luồng thần kinh chạy từ sau sọ qua gáy, xuống hai đùi làm các bắp thịt co cứng lại, và tôi biến thành thép. Trong bầu không khí tĩnh lặng như cõi tiên, Clayton cúi mình, lắc lư, múa may, không một thứ gì xen vào. Khi bài múa sắp hết, người ta cảm thấy như bị đè ngộp: cảm thấy ghê răng.
Động tác cuối cùng, như tôi đã mô tả ở trên, gồm dang rộng hai tay ra, mặt ngước lên. Khi anh làm động tác cuối cùng này, tôi như nghẹt thở. Dĩ nhiên, hơi tức cười, nhưng âu cũng chỉ là cảm giác thông thường khi nghe chuyện ma, sau khi ăn cơm tối, trong bầu không khí ma quái của một ngôi nhà cổ.
- Sau cùng, liệu anh ta...?
Anh đứng đó sững sờ một lúc, hai tay dang rộng, mặt ngước lên, nét mặt tự tin và sáng lên dần dưới ánh đèn treo mờ mờ. Chúng tôi trải qua giây phút dài như thiên thu, rồi tất cả chúng tôi cảm thấy như được giải thoát nhẹ nhõm vô cùng, vừa an tâm anh ấy rõ ràng là không biến được. Tất cả chỉ là chuyện tầm phào. Anh chỉ nói một câu chuyện suông mà lại tin là thật... Nhưng rồi nét mặt Clayton biến đổi.
Nét mặt Clayton biến đổi, nó biến đổi như thể một căn nhà đang sáng thì đèn phụt tắt ngấm. Mắt anh đột nhiên giống như mắt giả, nụ cười đọng cứng trên môi. Anh đứng đó, im lìm bất động. Sau đó hơi lắc lư nhẹ.
Lúc đó cũng dài như cả thế kỷ, rồi ghế xê dịch, đồ vỡ đổ, tất cả chúng đều di chuyển. Hai chân anh khuỵu xuống, anh ngã chúi về phía trước. Evans bật dậy, lao ra nâng anh vào lòng...
Sự việc làm chúng tôi ngồi chết sững. Hơn một phút chẳng ai nói được câu nào thích hợp. Chúng tôi đã vừa tin câu chuyện vừa không thể tin được. Khi hết bàng hoàng, tôi mới nhận ra mình đang quì bên cạnh anh. Sanderson cởi áo vét, mở sơ mi Clayton ra, thò tay vào sờ tim anh...
Nào, nói tiếp, cái sự thật đơn giản trước mặt chúng tôi đã khiến chúng tôi dễ chịu trở lại. Chẳng cần lâu lắc gì chúng tôi mới hiểu. Sự thực nằm đó khoảng một giờ và nằm trong ký ức tôi, đen tối những êm ả lạ kỳ, cho đến ngày nay.
Clayton đã đi vào cái thế giới nằm kề cận và cũng rất xa thế giới của chúng ta. Anh đã sang thế giới đó bằng con đường duy nhất mà loài thọ tạo phải đi qua.
Dù Clayton qua đó vì con ma đó gọi hay vì thiếu máu cơ tim khi kể một câu chuyện ma, như kết luận của ban khám nghiệm tử thi, cũng chẳng giúp tôi phán đoán được. Nó vẫn mãi mãi là một bí ẩn cho đến ngày phán xét sau cùng. Có điều ai cũng biết rằng vào lúc anh kết thúc điệu múa ma biến đi anh biến đổi, lắc lư và ngã xuống chết trước mặt chúng tôi!