Họ ngồi nán lại bàn ăn trưa, và sau đó kéo nhau qua một phòng mờ mờ, lành lạnh, trần cao, trong thư viện của Ngài thẩm phán. Qua trao đổi nho nhỏ, quá khứ của người già và tương lai của người trẻ như lồng với nhau và cảm thông với nhau. Nhưng vào lúc 3 giờ 20 phút chiều một thứ Bảy, tháng Sau, việc hiện tại bùng lên. Đường phố đang yên tĩnh thì nổi lên tiếng ồn ào.
Thẩm phán Kittinger điều chỉnh kính kẹp mũi, dẫn đầu ra hàng hiên xây kiểu cổ, để có thể nhìn ra ngả ba có vòm cây che phủ giữa hẻm Greenwood và phố Hannibal Street. Cạnh thềm cửa của căn nhà góc phố đối diện, có một bọn trẻ lố nhố và một ông già. Rồi một phụ nữ mặc cái áo xanh mỏng, từ căn nhà bên trái thẩm phán, băng qua phố, sang chỗ huyên náo. Một chiếc xe cảnh sát thắng gấp sát ngả ba, trên phố Hannibal. Một nhân viên cảnh sát cao lớn, vẹt đám đông ra, túm lấy tay một cậu bé đang la lối om sòm.
Mike Russell nói với chủ nhà: "Xin lỗi Ngài”, rồi băng băng qua đường. Gây rối là một cậu bé mười, mười một tuổi, tóc vàng nhạt, mắt xinh ánh nâu, mũi dọc dừa, mày thanh tú. Cậu đang mất bình tĩnh, vùng vẫy trong tay người cảnh sát. Bà mặc áo xanh đang lải nhải nói với cậu:
- Freddy! Freddy! Freddy!
Lời van xin dừng như không đến lỗ tai cậu bé.
- Ông già phá đám, ông già mất nết, ông già điên!
Cả tâm hồn cậu bé bày ra ở những từ cậu dùng. Người cảnh sát lắc mạnh cậu bé:
- Im đi, nghe đây…
Cậu vẫn cố căng ra, nhưng làm sao thoát nổi bàn tay gọng kìm của người cảnh sát. Lời thóa mạ của cậu đủ làm mặt ông cụ tím lại.
Ông cụ đứng tựa lưng vào tường như thể bị địch bao vây, béo lùn, trán hói, đôi mắt thô lố vì bị cặp kính lão dầy phóng lớn lên. Ông cụ lớn tiếng rên rỉ:
- Chúng đánh tôi, chúng giựt chuông nhà tôi, chúng thực sự nhào vào xé xác tôi.
Bảy, tám đứa nhỏ vây quanh nhao nhao nói những câu chẳng đâu vào đâu với giọng the thé, đại khái ta chỉ hiểu được là chúng tức giận với cụ già. Một phụ nữ nhỏ nhắn mặc áo bông, một ông mặc quần soọc, cái ngực trần của ông trắng như tuyết, đứng hơi xa, vẻ băn khoăn. Trên hàng hiên nhà, chiếc cửa lưới hé mở, một bà cụ ngồi trên chiếc le lăn nhìn ra ngoài đăm chiêu lo lắng. Trên vạt cỏ xanh dưới bóng ngôi nhà, cách rào trước chín, mười mét, một con chó nhỏ trắng đốm nâu nằm chết.
Người thanh niên, khách ăn trưa của ông thẩm phán quan sát kỹ và nghe mọi chuyện. Khi ông thẩm phán đến gần, đám đông bớt ồn ào. Ông thẩm phán lên tiếng:
- Đây là cậu Freddy Titus, đúng không? Ông Matlin? Có chuyện gì vậy?
Ông cụ hất đầu thanh minh:
- Tôi chẳng làm gì con chó cả, việc gì tôi phải làm hại con chó của cậu ta? Tôi cố sống an phận ở đây mà. Ông thẩm phán thấy đó. Nhưng mấy cậu nhỏ này khủng khiếp quá, các cậu ấy làm cho khu phố này và gia đình tôi như sống trong địa ngục - Giọng cụ già thật xúc động. Vợ tôi không được khỏe, con gái tôi thì bị thọt chân. Những thằng nhỏ này lại y như một lũ du côn. Chúng quỉ quái quá! Thằng nhỏ đó giựt chuông nhà tôi… và hành hung…! Tôi sẽ thưa nó về tội hành hung! Tôi…
Mặt ông thẩm phán trắng bạch như ngà, chẳng biểu cảm gì.
Trên lối ra, đang đi né qua một bên chiếc xe đẩy của bà lão, một cô gái có dáng đi lao về trước.
Mike Russell hỏi nhỏ nhẹ:
- Tại sao lũ trẻ lại nói là bác làm hại con chó, bác Matlin?
Lũ trẻ nhao nhao lên:
- Ông ấy là già đê tiện…
- Ông ấy khùng…
- Chỉ vì…
- … lấy nón của Clive
- … đuổi chúng cháu…
- … cố đổ mọi tội cho chúng cháu…
- … bảo mẹ cháu nói láo…
- … chỉ tại…
- Chúng luôn nói: “ông ấy là kẻ thù của chúng cháu, kẻ thù của chúng cháu…”
Ông cụ Matlin nói “chúng…." rồi giận nghẹn họng.
- Đợi chút đã! - Người cảnh sát thứ hai, người gầy, bước lại chỗ con chó chết.
Mike Russell lại nói nho nhỏ:
- Phải có ai nói cái gì giúp cậu bé chứ.
Ông thẩm phán cúi nhìn cậu bé đang tức giận, ôn tồn nói:
- Tôi rất buồn, rất thông cảm với em, Freddy.
Nhưng trong thâm tâm ông, ông đã biết quá nhiều, thấy quá nhiều chó chết. Dù ông có thông cảm, ông cũng không thể buồn đủ bằng cách buồn của Freddy vì con chó của mình chết được. Cậu bé ngoảnh mặt chỗ khác từ chối niềm thông cảm của ông, quay lại nhìn kẻ thù.
Russell bước tới gần người phụ nữ áo xanh. Bà ấy là người nhà của cậu bé.
- Bà là mẹ cậu bé phải không?
- Cha mẹ cậu ấy đi vắng. Tôi đến đây chăm sóc cậu ấy.
Bà ấy nói như thể chính mình gặp một khủng hoảng đột xuất, không trù tính trước để đối phó.
- Có thể liên lạc với họ được không?
- Không. - Bà ấy nói quả quyết.
Thanh niên lạ đặt tay lên đôi vai cứng cáp của cậu bé. Nhưng thái độ thân thiện này cũng bị cậu từ chối. Mắt Freddy long lên vì tức giận, không rời kẻ thù. Một hận thù câm nín.
Người cảnh sát cao lớn nói:
- Này anh bạn, giữ giùm tôi thằng nhỏ một lúc.
Russell chối:
- Không được đâu.
Ông cảnh sát gầy trở lại:
- Như thể nó bị đánh bã. Tìm thấy con chó lúc nào?
- Mới đây thôi. - Cậu bé trả lời.
- Ở đâu? Chính chỗ ấy à?
- Trên đường Hannibal, gần ranh giới phần đất sau nhà ông Matlin.
- Bên ranh giới nhà tôi? - Mặt cụ Matlin lại đỏ bừng. Sao cậu không nói trên lề đường, tại sao phải nói dối!
- Chúng tôi nói thật, không nói dối.
Ông cảnh sát nạt:
- Các cậu im miệng, không được ồn ào nữa.
Già Matlin lại lớn tiếng:
- Có trời làm chứng, lúc đó tôi đâu có ở nhà! Tôi chơi một ván golf chín lỗ. Tôi đâu có về nhà trước... mấy giờ nhỉ, May?"
Ông quay đầu lại hỏi vọng vào trong:
- Bố về nhà mấy giờ nhỉ?
Cô gái từ trên hàng hiên bước xuống lối ra cổng, khấp khểnh trên cặp chân thọt. Cô khoảng hai mươi tuổi, không còn bé nữa. Cô cũng phải là phụ nữ đã có chồng. Cô nói nhấm nhẳng:
- Khoảng ba giờ, bố Earl ạ, nhưng lúc đó con chó đã chết rồi.
- Cô này là ai?
- Con gái riêng của vợ tôi.
Cô gái nói:
- Con chó đã chết trước khi ông ấy về nhà. Tôi nhìn thấy con chó chết ở đó trước ba giờ, ngay cạnh lối, đi từ trên lầu.
- Ông lái xe về nhà theo phố Hannibal phải không, ông Mallin? Vậy thì ông có thể thấy con chó lúc đó chứ?
Ông cố suy tính để trả lời nhưng lại bối rối ngập ngừng:
- Tôi không rõ. Đầu óc tôi... vâng, tôi...
- Ông ấy nói dối!
- Freddy, im lặng.
Cô May Matlin:
- Xin các ông tin lời tôi.
- Cô ấy cũng nói láo đó!
Ông cảnh sát lại lắc mạnh Freddy để nó im. Cụ Matlin kêu lên chán nản tuyệt vọng, bảo cô gái:
- Con vào với mẹ, May.
Rồi ông nói vọng vào với bà cụ trên xe lăn với vẻ hồ hởi giả tạo nghe rất ngang tai.
- Chuyện sẽ êm thôi cưng, không có gì phải lo lắng cả.
Hàm dưới cậu Freddy mấp máy, chàng thanh niên Russell quan sát cậu rồi nheo mắt làm hiệu. Cô gái tập tễnh đi vào nhà. Ông Matlin lại phân trần:
- Chính vợ tôi phải gọi điện thoại báo cảnh sát. Gì thì gì, bọn chúng đã nhào vô đánh tôi như một bầy sói. Bây giờ thì tôi biết rồi, cậu nhỏ ấy điên khùng rồi. Nhưng có điên khùng thế cũng phải biết... Cậu ấy không thể... cậu ấy phải hiểu rằng... Tôi sẽ không... Tôi đã chịu đựng quá nhiều rồi, đủ trò quỉ quái, làm khổ, hành hạ người ta đủ rồi.
Freddy không hề chớp mắt.
Cụ Matlin rít lên như cuồng như loạn:
- Chúng phải chấm dứt cái trò phá phách này.
Mike Russell biểu đồng tình nhỏ nhỏ:
- Vâng, tôi cũng nghĩ vậy.
Thẩm phán Kittinger gục gặc mái đầu bạc đồng ý.
Ông cảnh sát cao gầy nói với vẻ chững chạc chuyên nghiệp:
- Tôi đã nghe có nhiều vụ đầu độc chó qua điện thoại ở vùng Redfem, nhưng chưa nghe có vụ nào ở vùng này.
Ông ở trần, mặc quần soọc tiến lên tham gia câu chuyện:
- Ai ở đây có thể làm một chuyện như vậy?
Một cậu bé mạnh bạo nói:
- Già Matlin dám làm.
Cậu có cái cằm xệ, cặp kính cận nằm gọn trên sống mũi cao nhọn:
- Cháu là Phil Bourchard.
Cậu nói với ông cảnh sát chẳng có vẻ sợ hãi gì.
- Cháu là Ernic Allen - Tính chất hùa theo bạn toát ra khắp thân hình gầy gò của cậu. Chúng cháu mới khám phá ra, già Matlin chẳng muốn ai đi trên vườn ngôi nhà cổ của ông ấy cả.
- Đúng đấy, ông ấy chẳng bằng lòng ai đứng lên đất của ngôi nhà cũ cả. Chính là già Matlin.
Freddy Titus hét toáng lên:
- Đúng ông ấy, đúng ông ấy.
Bà chăm sóc cho Freddy mặc áo xanh bây giờ mới lên tiếng:
- Bây giờ cháu nên giữ yên lặng để người lớn giải quyết. Tôi sẽ mách bố cậu đấy.
Đó là cách kìm giữ trẻ con ít ồn ào nhất. Nhưng dường như cậu bé không nghe thấy.
Thẩm phán Kittinger kiên nhẫn thử một lần nữa:
- Cháu muốn đổ tội cho ông cụ thì cháu phải có bằng chứng chứ, Freddy.
- Con Bones đâu có làm hư tài sản của cụ ấy. Nó chẳng phá hỏng cái gì cả. Chính già Matlin làm.
- Thằng quỉ nhỏ nói láo!
- Ông ấy nói láo!
Ông cảnh sát lại lắc vai Freddy lần nữa:
- Thế làm sao mà tụi mày thấy con chó?
- Chúng cháu đang ở nhà Bourchard, đang định xuống nhà Titus.
- Và thấy con chó đã chết rồi. - Freddy thêm vào.
Cụ Matlin uể oải đáp lại:
- Tôi không biết chuyện đó. Chẳng biết tí gì cả.
Ông cảnh sát đứng giữa đám, bực mình hỏi:
- Có ai ở đây thấy chuyện gì không?
Ông mặc quần soọc phát biểu:
- Tôi là Daugherty, người hàng xóm của ông Matlin nhưng nhà quay ra phố Hannibal. Tôi vẫn ngồi trong vườn sau nhà. Tôi không thấy chuyện gì cả.
Phụ nữ nhỏ nhắn mặc áo bông cũng lên tiếng:
- Tôi là Page, ở góc đối diện, phía bên kia đường. Tôi thấy rõ ràng một người đàn ông lạ đi vào lối xe đi nhà ông Matlin sáng nay.
- Thưa bà lúc mấy giờ ạ?
- Khoảng mười một giờ, ông ấy ăn mặc luộm thuộm, đi vào lối xe và quanh quẩn ở gara.
- Ông ấy không đi vào nhà chính à?
- Không. Ông ấy chỉ ở trong khuôn viên nhà khoảng ba phút. Tôi tin là ông ấy có ôm theo một cái gì, ăn mặc tồi tàn, điệu bộ rất khả nghi, giống như dân cầu bơ cầu bất.
Lời khai này khiến những người lớn cảm thấy nhẹ nhõm. Mike Russell nhận xét:
- Ồ, thật là một ông già du thủ du thực mà lương thiện. Bà có chắc không, bà Page? Chuyện khó xảy ra quá!
Người phụ nữ sửng cồ lên:
- Ông cho là tôi nói láo à?
Russell mở miệng định nói, anh thấy bàn tay ông thẩm phán chạm tay anh, rồi giọng nói ôn tồn của ông:
- Đây là khách của tôi, ông Russell... Freddy. Thầy để cho cậu ấy đi đi: chắc giờ đây cậu ấy đã hiểu. Cháu Freddy này, cụ Matlin không ở nhà sáng nay. Có thể là người lạ đó... hay chỉ là một tai nạn bất ngờ.
- Không phải người sống lang thang, không có tai nạn nào cả!
Giọng ông thẩm phán lần này có vẻ cương quyết:
- Cháu không thể chắc chắn như vậy, Freddy.
Freddy không nói gì, ông cảnh sát buông tay cậu ra, cậu tự động bước lùi ra sau. Những cậu bé khác ùa lại đứng vây quanh Freddy. Kẻ thù còn kia, con quỉ già giết chóc và nói láo. Những người lớn có chút chín chắn lại vào hùa với con quỉ. Nhưng những cậu bé đều biết những gì Freddy biết. Chúng đoàn kết với nhau.
Khách của ông thẩm phán nói nhỏ nhẹ:
- Có ông bà nào giúp được cậu Freddy một chút chứ.
Và ông thẩm phán thở dài.
Hai ông cảnh sát bước trên phố Hannibal, đến sân cỏ sau nhà ông Matlin, cùng với ông Daugherty. Cụ Matlin nấn ná ở góc đường, nói chuyện với bà Page. Tấm màn sau kính cửa sổ mặt tiền trong nhà Matlin được buông xuống.
Mike Russell xán lại gần phụ nữ áo xanh coi nhà cho ông bà Titus.
- Cậu Freddy còn có chú bác, cô dì trong thành phố này không? Bà ngoại, bà nội gì chẳng hạn.
- Không!
Cụt ngủn.
- Nó còn anh chị em nào không, thưa bà…?
- Tôi là Somers. Không, nó là con một. Ông bà ấy không mang nó theo vì chỉ còn một tuần nữa là bãi trường, cậu ấy cũng không muốn nghỉ học.
Đôi mắt nâu của Russell ánh lên mượt như nhung nhưng đượm buồn. Bà Somers lảng tránh sự thu hút của đôi mắt, rồi nói:
- Cậu ấy phải gánh chịu lấy thôi, như mọi người khác.
Russell nghe rất chăm chú:
- Bà có thích chó không?
- Tôi chẳng để ý gì đến chó.
Bà ấy nghển cổ lên định gọi Freddy.
- Bà đợi một chút hãy gọi. Gia đình họ có đi nhà thờ không? Có mục sư hay linh mục nào biết rõ cậu bé không?
- Theo chỗ tôi biết thì họ không đi.
Bà trả lời rồi nhìn Rusaell như thế cho anh là người gàn.
- Vậy thì ở trường, cậu ấy có một thầy giáo. Cậu ấy học lớp mấy?
- Lớp sáu, học cô Dana. Ô, mà rồi cháu nó sẽ đâu vào đấy thôi mà. Cậu ấy giỏi lắm.
Thiếu phụ cố gắng nói lớn để cậu bé nghe được.
Russell hỏi tha thiết:
- Không có cách nào liên lạc điện thoại với cha mẹ cậu ấy à?
- Họ đang trên đường về. Họ có thể về tới bất cứ lúc nào ngày mai. Tôi chỉ biết có vậy.
Giọng bà hơi bồn chồn, nhưng rồi bà lại lên giọng một cách tinh quái, dỗ dành:
- Bởi vậy tôi mới ở đây chăm sóc cậu ấy. Thôi Freddy ơi, đi rủa mặt mũi đi. Tôi biết còn vài cái bánh sô cô la đấy.
Ánh mắt mượt như nhung của Russell biến mất, hai mắt cứng như hai hòn bi ve, chiếu chằm chặp vào bà ta một lúc.
Anh ta đi loanh quanh vài bước, rồi rời chỗ bà ta. Anh đến chỗ bọn nhỏ đang rón rén tiến dần đến chỗ con chó. Anh nói với cậu bé:
- Bones có bác sĩ thú y riêng phải không? Cho tôi biết tên ông ta đi.
Mắt cậu bé chớp chớp.
- "Ta phải xem con chó đã ăn gì. Bác sĩ thú y có thể biết đấy và bác sĩ của Bones là tốt nhất, đồng ý không Freddy?
Cậu bé gẫt đầu, lắp bắp một cái tên, một địa chỉ. Russell nhớ ngay tên và địa chỉ, không cần cậu bé lập lại, chứng tỏ anh rất quan tâm. Vả lại, đó cũng là phẩm chất của anh, nghe cái gì một lần là nhớ.
- Tôi mang nó đi đến bác sĩ cho, được không Freddy? Tôi có xe. Ta cần một tấm đắp, mềm và sạch.
Một cậu bé nói nhanh gọn:
- Tớ có rồi.
Chúng quay lưng lại, đi là thành hàng ngũ hẳn hoi.
Bà Somers cau mày. Russell báo cho bà ấy trước, đôi mắt lạnh tanh:
- Bà phải để cho chúng lấy tấm đắp. - Ông thẩm phán cũng nói ngay. Tôi sẽ giải thích cho bà Titus sau.
- Thật là rối tinh rối mù - Bà Somers nói, hất đầu một cái rồi băng qua đường.
Russell nháy ông thẩm phán một cách tinh quái, rồi bước tới đón hai ông cảnh sát đang trở lại:
- Chắc hai ông cũng cần kiểm nghiệm con chó. Bác sĩ riêng của con chó làm được không?
- Được chứ, nhưng chức trách lại thuộc một viên chức thể nhân chịu trách nhiệm. Điều này thì thú y sĩ không có.
- Vậy thì tôi sẽ mang nó đến pháp y. Các ông có thấy dấu vết gì trên đó không?
- Chẳng có vết tích gì cả.
- Các ông sẽ giải thích tiến trình điều tra cho cậu bé chứ?
Ông cảnh sát đổi chân:
- Viên chức thể nhân sẽ làm hết sức. Có lẽ vào thứ hai, sau khi chúng tôi xác định được chất độc, ông ấy sẽ cho điều tra từ các tiệm thuốc. Thường thì một người hàng xóm kỳ quặc, ông ta đã đưa một đơn khiếu nại về con chó. Nhưng đằng này ông không hề thưa gửi. Viên chức trách nhiệm về thể nhân sẽ thụ lý vụ này vào thứ Hai. Hôm nay ông ấy vắng mặt ở thành phố. Cái rắc rối của những vụ như thế này, là chúng ta chẳng chứng minh được cái gì cả. Nếu biết ai làm chuyện đánh bã chó, ta chỉ có thể hù người ấy đừng làm nữa, chúng chỉ thuộc tội vi cảnh, chưa ai bị xử án về các vụ như thế này.
- Nhưng các ông sẽ giải thích vụ này cho bọn trẻ chứ?
Russell ngưng lại, cắn môi và ông thẩm phán thở dài.
Ông cảnh sát sau cùng nói:
- Đánh bã con chó như thế này hơi tàn nhẫn đối với cậu bé.
* * *
Khi người khách của ông thẩm phán quay lại đã gần năm giờ chiều. Anh nói:
- Thưa ông thẩm phán, tôi đến để từ giã và cám ơn về…
Nhưng anh không để ý đến câu nói và quên mất, anh ngập ngừng ngước lên.
Ánh mắt ông thẩm phán đầy nhân ái:
- Anh còn có gì băn khoăn?
Thanh niên trẻ nói:
- Thưa ông thẩm phán, có cần cho Freddy ăn thêm không? Tim đâu ra quanh khu nhà sang trọng này một phụ nữ có lương tâm thông cảm? Tôi đưa chúng vào nhà bà Allen đó, nhưng bà ấy nhăn mặt, lảng tránh chúng nó, bà ấy không muốn dính tới chuyện rắc rối, không quan tâm tới vấn đề tế nhị của chúng. Bà ấy chỉ mời chúng bánh ngọt, cô ca, và để chúng chơi đùa.
- Nhưng anh bạn thân mến…
- Ngày nay người ta dạy các em những gì, ngài thẩm phán? Ăn cho no bụng, uống cho đỡ khát, tránh đối diện với thực tế, chơi cho đã, đừng có khóc cho người thân chết, ráng vượt qua và hãy nghĩ tới một chuyện nào khác.
Ông thẩm phán hiền từ nói:
- Tôi e rằng cậu bé hôm nay cô đơn, nhưng chỉ tối nay thôi. - Giọng ông thành du dương - Không ai tránh khỏi buồn phiền khi tình huống ập tới.
- Ông bỏ qua cho, tôi lại muốn cậu ấy còn buồn khổ được chút đỉnh. Để cậu ấy khóc cho mở tấm lòng ra, rửa sạch những hận thù đen đúa đi. Tôi phải về đây. Chuyện này chẳng liên quan gì tới tôi. Đây là chuyện, chỉ cần trái tim một phụ nữ là giải quyết được.
Anh bắt đầu hành động, với tay lấy telephone:
- Cậu ấy còn cô giáo chủ nhiệm, tôi không thể bàng quan. Ngài đồng ý cho tôi thử cố gắng xem.
- Dĩ nhiên rồi, Mike.
Nói rồi, ông thẩm phán buông tấm thân gày gò, xương xẩu xuống ghế bành. Mike cố tìm hỏi số điện thoại của cô Dana từ Ban Giáo Dục.
- Cô Lillian Dana phải không ạ? Tôi là Russell. Cô có nhớ cậu họ trò Freddy Titus không ạ?
Giọng cô rất vui vẻ:
- Vâng, có chứ. Em ấy ở trong lớp tôi.
- Cô Dana ạ, có một chuyện nho nhỏ. Cô biết nhà Thẩm phán Kittinger chứ ạ? Cô có thể quá bộ tới đây được không ạ?
- Có chuyện gì thế ông?
- Con chó con của Freddy chết vì bã. Tôi e rằng Freddy buồn lắm. Không có ai ở đây chia sẻ với cậu ấy cả. Cha mẹ cậu ấy đi vắng chỉ có một bà nào đó coi sóc cậu ấy thôi.
Những câu giải thích gọn, cẩn thận của Mike bùng nổ thành tức giận, “không có một thông cảm tưởng tượng nào hơn được chỉ giúp một mẩu cây để chống đỡ".
Anh nghe thấy một tiếng thở ra:
- Tôi muốn giúp cậu ấy, cô Dana ạ, nhưng tôi là đàn ông, lại lạ, không ở khu đó, còn ông thẩm phán thì… - Anh ngập ngừng.
- … thì già - Ông thẩm phán ngồi trong ghế nhắc. _
Giọng trên điện thoại chậm chậm:
- Tôi rất tiếc, em Freddy lại rất giỏi.
- Cô xử sự như bạn cậu ấy chứ?
- Vâng, chúng tôi như bạn…
- Vậy thì cô sẽ đến chứ? Chúng tôi moi được trong đầu cậu ấy một tư tưởng thật kinh khủng. Cậu ấy nghĩ rằng một ông ở nhà đối diện cố tình đánh bã con chó của cậu ấy. Cậu ấy tin chắc như vậy. Cậu ấy không khóc mới đáng ngại.
Cô Dana lại thở ra. Mike nói tiếp.
- Greenwood Lane và Hannibal Street - góc Đông Nam.
Cô giáo quyết định:
- Tôi sẽ đến, tôi có xe, càng nhanh càng tốt.
Russell quay lại, bắt gặp ông thẩm phán đang cắn môi. Anh nhún nhường hỏi:
- Tôi có làm quá không, thua ông?
Giọng thẩm phán khô rang và rõ ràng:
- Tôi không chịu được cái thành kiến ngang bướng của cậu bé nữa, cũng như bạn. Tôi đồng ý là phải làm cho cậu ấy hiểu. Nhưng… - thẩm phán trở mình trên ghế - ông cụ Matlin cũng điên, Mike à. Có cái gì đó trầm trọng và ngốc nghếch, nên ông ấy trở thành nạn nhân. Ông ấy chẳng may, cưới một góa phụ có đứa con gái thọt. Cưới nhau chẳng bao lâu, bà ấy ngã bệnh. Ông ấy lại chẳng giàu có, phải bảo trì một cơ ngơi quá lớn.
- Ông ấy làm nghề gì ạ?
- Nhiếp ảnh gia. Ông ấy cố phấn đấu hết mình nhưng trong hoàn cảnh căng như vậy, Mike ạ. Cô bé tật nguyền cố chăm sóc nhà cửa, tận tụy với mẹ. Ông cụ Matlin cũng làm việc hết mình và tận tụy. Thê mà hậu quả là vẫn nhấm nhẳng với nhau, căng thẳng với nhau, xô xát, to tiếng. Mặc dù vậy, dĩ nhiên chẳng nên gây thù oán với lũ trẻ.
Mike sâu sắc nhận xét:
- Bọn trẻ cũng có phần trách nhiệm. Chúng khoái tưởng tượng ra một ông hàng xóm ba bị để tăng cảm giác đe dọa. Vậy là ông cụ trở thành đối tượng các trò tinh quái của chúng. Một kẻ thù.
Ông thẩm phán thở dài:
- Đúng thế.
- Như vậy là câu chuyện hoang đường, tưởng tượng của chúng được thêu dệt. Những tin chúng đồn đại ra thế nào cũng có chi tiết về cụ Matlin. Ta không thể một sớm một chiều mà phá bỏ chuyện tưởng tượng của chúng được.
- Làm sao mà làm cho chúng hết hoang tưởng ngay được - Ông thẩm phán nói mà trĩu nặng ưu tư, đứng dậy khỏi ghế.
Chàng thanh niên bóp trán:
- Thưa ông, tôi không chịu được những chuyện như vậy. Chúng ta chẳng hề biết trong đầu bọn trẻ nghĩ gì, hoặc những ai là anh hùng của chúng. Cụ thể chúng chỉ là một bọn nhóc, ông thấy nên khuyên chúng những gì?
- Cuối cùng chúng ta phải khuyên chúng gì đây - ông thẩm phán nói rõ và sâu xa - Dù cụ Matlin có nói gì chăng nữa, ở đây không phải khu nhà ổ chuột.
Ông bồn chồn bước lại cửa sổ, ông táy máy cái núm chỉnh màu. Thình lình ông bảo Mike:
- Từ căn nhà mát của tôi ở cuối vườn, anh bạn có thể nghe lén chúng nói gì. Chúng tụ tập dưới cây sồi ấy. Đi nghe coi Mike.
Chàng thanh niên đứng nghiêm:
- Vâng ạ!
Ông thẩm phán nói bẽn lẽn:
- Vì chúng ta cần biết…
Bọn trẻ ngồi dưới tán cây sồi, nơi chỗ trũng nhiều cỏ, Freddy ngồi giữa. Mặt căng thẳng. mắt không rời quan sát nhà kẻ thù. Các đứa khác nhìn nó, cúi đầu hay quan sát những bàn tay dính đất mân mê những cọng cỏ.
Chúng không nói chuyện, chúng như chìm ngập trong bầu không khí nặng nề, dỗi hờn vì bị ức hiếp, buồn bực vì phải chịu bất công. Lâu lâu, một đứa lại tuyên bố gì đó rồi lại chìm vào yên lặng, càng làm tình trạng xấu hơn.
Ông thẩm phán ngước mắt lên khỏi tờ báo:
- Có nghe được gì không?
Mike trả lời nho nhỏ:
- Có ạ, chúng than phiền về luật pháp, tham nhũng thối nát. Chúng quả quyết cụ Matlin đã đánh bã con chó. Chúng đóng vai Hiệp sĩ rừng xanh Robin Hood phải khôn khéo bênh vực kẻ yếu, người bị áp bức và chó. Chúng cho là chúng đang bàn tới công lý. Chúng đang đợi đêm tới. Chúng nói tới vũ khí - những thứ duy nhất mà chúng có - những khẩu súng nhựa.
- Trời đất!
- Ngài đừng lo. Sẽ không có gì ngyy hiểm đâu.
- Anh định sẽ làm gì?
- Ngăn chặn chúng.
* * *
Bà Somers đang nấu ăn chiều thì Mike gõ cửa.
- Ồ, ra là ông. Có chuyện gì vậy?
- Tôi mong bà cộng tác để giúp đỡ Freddy.
Bà ấy vênh mặt lên nói lớn:
- Freddy sẽ ăn tối, rồi đi ngủ đúng giờ thường lệ. Với Freddy chỉ có vậy. Ông còn muốn nói thêm gì nữa đây?
- Tôi muốn được rủ cháu về ngủ ở nhà tôi tối nay.
Bà ấy cự liền:
- Tôi không thể nào làm như vậy được.
- Ông thẩm phán sẽ bảo đảm mà…
- Xin ông nghe đây. Tên ông là gì nhỉ - Russell; đây không phải là nhà tôi. Freddy cũng không phải là con tôi. Tôi chịu trách nhiệm với ông bà Titus. Ông và tôi lại chưa quen nhau. Theo tôi thấy, Freddy có can hệ gì đến ông?
Russell hỏi đanh thép:
- Phòng cậu ấy đâu?
Bà Somers sửng cồ, giọng nghi ngờ:
- Tại sao ông phải biết?
- Cậu ấy để súng nhựa ở đâu?
Bà ấy buột miệng trả lời
- Trong nhà phụ, phía sau.
Mike cho bà ấy biết hết chuyện. Bà ấy châm chọc:
"Thật là chuyện con nít. Ông đâu có hiểu biết gì về con nít, chàng thanh niên? Freddy sẽ đi ngủ một mạch cho đến sáng. Chắc chắn sẽ như vậy.
- Có thể bà nói đúng. Tôi cũng mong được vậy.
Bà Somers hất toẹt khoai nghiền vào chảo rán. Môi bà run lên vì tức giận. Bà ấy bực mình vì không dám chắc sự việc sẽ suông sẻ như lời mình nói. Anh ta lại tin rằng mình làm được như vậy.
* * *
Russell quan sát đường phố rồi băng sang nhà ông Matlin. Chính ông ấy ra mở cổng. Không khí trong nhã tù hãm, khét mùi dầu mỡ cũ. Mọi thứ đều ở trong tình trạng phải chống đỡ tạm thời và tuyệt vọng. Nhiều thứ lẽ ra đã phải sửa chữa tu bổ, nhưng không. Căn nhà thì quá lớn. không đủ sức, không đủ tiền để tu sửa bảo trì. Đơn giả là quá khả năng.
Bà Matlin không đi lại được. Ai cũng có thể thấy bà ấy đã phấn đấu hết sức. Bà ấy nhìn thẩn thờ, như thể phải lo lắng điều gì thường xuyên, chiếm chín phần mười năng lực của bà. Cô May Matlin khấp khểnh đi vào, ngồi xụp xuống, không còn sinh khí.
Russell mở lời đầy nhiệt tình:
- Cụ Matlin ạ, tôi không biết tình trạng căng thẳng giữa cụ và bọn trẻ bắt đầu như thế nào. Tôi đoán chúng vì tỉnh nghịch quấy phá cụ. Chúng có vẻ khoái chí lắm.
Anh mỉm cười, cố tỏ tình thông cảm với cụ.
Cụ Matlin nhìn Russell hể hả:
- Dĩ nhiên là chúng khoái rồi.
Cô gái tật nguyền nói:
- Chúng gọi cháu là mụ phù thủy, rồi giả vờ là sợ cháu. Chúng là những thằng quỉ. Cháu khiếp chúng quá.
Ông cụ Matlin nháy mắt bồn chồn với bà cụ ngồi trong xe lăn, rồi nói với Russell bằng một giọng rên rỉ:
- Sự thật chỉ là chúng chơi ranh ma độc ác.
Vợ ông nói lí nhí:
- Thật tệ quá, tôi nghĩ tình hình còn nguy hiểm nữa.
- Mẹ ơi, mẹ đừng lo gì cả - Cô con gái nói với một giọng cương quyết tự tin, khác hẳn. Con không để chúng phá mẹ đâu. Không đứa nào sẽ dám làm phiền mẹ cả.
Ông Matlin chặn lời con:
- Im đi May, con sẽ làm mẹ con sợ đấy. Dĩ nhiên đâu có đứa nào phá mẹ con được.
Russell nói nhỏ nhẹ:
- Dĩ nhiên có nguy hiểm đấy bà Matlin. Chính vì vậy mà tôi phải qua đây.
Ông cụ Matlin trố mắt kinh ngạc:
- Cái gì? Nguy hiểm gì vậy?
- Xin cụ tin theo lời khuyên của tôi, hôm nay ông đi ngủ ở nơi khác. Khi đi cố đánh động cho bọn trẻ biết.
Cụ Matlin chồm lên vì bị chạm tự ái:
- Không! Sao ông lại khuyên tôi như vậy được. Dù bất cứ biến cố nào, tôi cũng không ra khỏi nhà tôi - Giọng ông cất lên cao hơn - Ngoài ra cũng không khi nào tôi để vợ con tôi một mình.
Bà Matlin góp ý một cách lo lắng:
- Mẹ con tôi tự lo liệu được mà, ông.
Russell nói cho họ biết câu chuyện của bọn trẻ dưới gốc sồi, về súng nhựa.
Ông cụ Matlin thốt lên sửng sốt:
- Đúng là bọn quỉ sứ, chúng hoàn toàn…
Bà Matlin run rẩy
- Ôi, anh Earl, hay tốt hơn là chúng ta đi cả đi.
Cụ Matlin giận đỏ mặt tía tai:
- Chúng ta sở hữu chủ ngôi nhà này, chúng ta đóng thuế, chúng ta phải có quyền. Cứ để mặc chúng. Xem chúng có thê làm trò đó không? Lúc đó thì luật pháp phải lên tiếng. Thật là loạn, suy đồi quá rồi. Tôi không làm hại con cho đó. Bởi vậy, tôi thách…
Ông tỏ ra quan trọng và ngốc nghếch, như ông thẩm phán đã nói, mặt tím đen, đôi mắt thẫn thờ long lên.
Russell đứng dạy và từ tốn nói:
- Tôi chỉ đề nghị cụ vậy thôi, vì đó là cách giải quyết êm đẹp nhất. Nhưng xin bà Matlin đừng lo, vì tôi…
Bà lo lắng nói:
- Nhưng súng nhựa có thể làm mù…
- Hoặc còn tệ hơn nữa - Russell đồng tình với bà - nhưng tôi đã nghĩ tới…
- Đừng nói - ông Matlin gầm lên. Ông không thể đến đây dọa vợ tôi! Bà ấy không được khỏe, ông không có quyền.
Ông đứng gậy, dạng hai bàn chân thẳng góc nhau lấy thế. Hai cánh tay ngắn, mập dang ra, ngấn thịt dưới cằm rung lên:
- Xéo ra ngoài!
Ông trông thật tức cười.
Không hiểu Ruselll và bà cụ trong xe lăn có cảm thông nhau không. Dĩ nhiên Russell phải bước ra ngoài. May Matlin lò cò theo, ở cửa cô nói:
- À! dẫu sao thì ông cũng đã báo cho chúng tôi biết trước.
* * *
Russell lại đi băng băng trên vỉa hè. Bóng dài của cảnh vật theo ánh tà dương nhảy nhót trên đường. Những căn nhà cổ đồ sộ nhuốm nắng vàng có đường nét dịu dàng hơn, cạnh những tàu lá xanh. Anh tới chỗ cây sồi lớn. Anh cũng ngồi xổm xuống. Những chùm tia vàng nghiêng, xuyên qua tán lá chiếu được tới những cành nhỏ bên dưới. Anh hỏi:
- Chuyện của các em đến đâu rồi?
Freddy Titus cứng người, im lặng. Phil Bourchard cố ra vẻ bình tĩnh trả lời:
- Cũng được ạ.
Ánh nắng chiếu qua cặp mắt kính cú vọ, rọi vào mắt cậu làm cậu hấp háy.
Russell mở miệng định nói, anh ngập ngừng. Chuông đồng hồ quanh vùng điểm giờ ăn tối. Những tiếng gọi nhau í ới ngân lên như chuông.
- Mẹ tớ gọi - Ernic Allen tuyên bố - Tạm biệt. Gặp lại, Freddy.
- Tạm biệt.
Tiếng hú gọi của bà Somers cũng vang lên hòa theo. Đến lượt Freddy cũng đứng lên, người thuỗn ra.
- Tốt đẹp chứ Freddy?
Mấy tiếng thường dùng ở cửa miệng người Mỹ, có nghĩa bớt buồn chưa hay dễ chịu chưa.
- Tốt đẹp.
Freddy trả lời ngay bằng hai tiếng đó nên chàng thanh niên còn nói gì được nữa. Anh hé môi rồi lại ngậm lại. Freddy đang băng qua sân cỏ vào cửa sau nhà. Có một cái tô sành dưới vòm cửa sau. Hai ống quần chẽn của cậu bó sát hai mắt cá bước qua tô. Mike Russell quan sát kỹ rồi với điệu bộ như vung tay, anh bước lên thềm nhà ông thẩm phán.
Ông thẩm phán mở cửa:
- Sao, anh bạn đã nói chuyện với bọn trẻ chưa?
Russell chưa trả lời. Anh ngồi xuống. Thẩm phán đứng trước mặt anh:
- Toàn bộ việc này, quan trọng nhất là phải giải thích cho chúng hiểu - Mike trả lời thiểu não - Tôi không thể giải thích được gì. Tôi mở miệng ra mà chẳng có ý nào cả. Tôi chưa thân thiên được với chúng.
Có lẽ tốt hơn, tôi nên…
- Ngài định nói gì ạ?
- Sao còn hỏi, cho cậu ấy biết lẽ phải và sự thật.
- Sự thật chỉ là con chó đã chết.
- Nhưng chẳng có bằng chứng nào chứng tỏ ông Matlin đã giết nó.
- Nhưng cũng chẳng có bằng chứng nào tố cáo kẻ lang thang. Chuyện đó lôi thôi quá.
- Anh muốn ám chỉ cái gì?
- Thẩm phán ơi, những đưa trẻ nghi đúng hơn chúng ta.
Thẩm phản bác lại:
- Vô lý. Cô bé đã thấy xác con chó trước khi ông Matlin về nhà.
Mike buồn bã nói:
- Không có chứng cớ ngoại phạm cho việc đánh bã.
- Vậy thì anh cho là cụ già nói dối à?
Mike thở dài:
- Những người nói dối. Làm sao bọn trẻ sẽ hiểu được sự thật và những lời nói dối? Với các bà như bà Page và đám trẻ, sự thật chỉ là cái ý định chủ quan của họ thôi. Bà ấy nói, cậu ấy nói: "tôi không nói láo, tôi cố gắng trung thực. Đừng có gán tội cho tôi là nói láo". Thưa ngài, khi nào thì ta bắt đầu? Việc này chính là cái chúng ta bàn trong bữa ăn trưa vừa rồi. Đó là LẦM LẪN, điều Ngài và tôi đều tin là kẻ thù. Loài nguời đã được bảo đi bảo lại trong đau khổ ngậm ngùi như vậy, bài học cay đắng chỉ rút ra được sau hàng triệu năm.
Chàng thanh niên bung mình ra khỏi ghế.
- Chúng ta biết, nói thật không chỉ là thiện chí. Nói thật là việc rất khó khăn. Nói thật là một kỹ năng cần luyện tập, là một kỹ thuật, một cố gắng liên tục. Nói thật đòi hỏi óc suy luận, cần biết quan sát. Nói thật cần khiêm tốn và tự xét mình. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật. Tại sao ta không nói những điều này cho bọn trẻ biết? Tại sao người ta bị kết chặt với nhau trong những cơn giận dữ, mỗi bên rủa nhau là nói láo? Tại sao người ta không nhận ra ngay là chúng ta rất dễ lầm, chứ không phải dễ dàng độc ác. Tại sao các cậu ấy có ý định dùng bạo lực? Vì Freddy không tự nghĩ: "Khoan đã, mình có thể lầm không?” Cậu ấy không được giáo dục một tập quán tốt như vậy. Nhưng các người hùng thì có sẵn. bắp thịt cuồn cuộn, trái tim hùng dũng, tay lăm lăm khẩu súng, chỉ biết chấp nhận mù quáng cái nghĩa do tác giả sắp đặt sẵn. Xin lỗi Ngài.
- Tất cả những điều đó đều có thể đúng - Ông thẩm phán nghiêm trang nói. Cảnh sát cũng học được bài học ấy. Họ…
- Họ không quan tâm đâu.
- Anh nói sao?
- Họ không quan lâm đúng mức, thưa Ngài. Không ai trong chúng ta quan tâm đúng mức về con chó.
- Tôi thấy rồi. Vâng, tôi hiểu là tôi chẳng hề có ý nghĩ xem con chó bị sao - Ông đưa tay năng nâng kính kẹp mũi.
Mike xoa xoa vầng trán buồn phiền:
- Nếu không biết làm gì mà ngồi ngắm cửa sổ nhà cậu ấy suốt đêm cũng chẳng ích gì.
- Tại sao anh không xem cái gì đã xảy ra cho con chó nhỉ?
Nét mặt chàng thanh niên thay đổi hẳn, anh nói nhỏ:
- Cái ta cần dạy cho Freddy là chính cậu ấy phải yêu cầu việc đó. Chỉ cần cậu ấy yêu cầu, chỉ cần cậu ấy muốn biết.
Một già, một trẻ nhìn nhau: quá khứ và tương lai lồng vào nhau. Mike nói:
- Ta làm ngay trước khi trời tối.
* * *
Bữa ăn tối cho trẻ con chỉ khoảng hai mươi phút. Khi cô gái y phục nâu, tóc vàng nhạt, để trần, bước ra khỏi chiếc xe mui trần thể thao. bọn trẻ đã tập trung chỗ trũng cỏ dưới gốc sồi. Cô ấy đến chỗ bọn chúng và ngồi thụp xuống đất:
- À Freddy này, có phải Bones là con chó nhỏ của em mà em tả trong bài luận không?
- Vâng, thưa cô Dana.
Giọng Freddy run run uất hận, như thể muốn tỏ ra là không cảm động, nhưng cô giáo hiểu ngay đó là tiếng khóc của Freddy. Bởi vậy cô không nói được lời nào nữa. Cô ngồi bệt xuống đất, và thực sự cô bắt đầu khóc.
Cảm xúc lây lan là sự việc giản dị nhất trên đời. Đầu tiên, một cậu nhỏ nhất nhõng nhẽo, sau đó Freddy Titus nghiêng qua cô. Cô đưa tay đỡ đầu em rồi cuối cùng em ngồi gọn trong lòng cô.
Russell đang ở trong nhà nghỉ mát sau vườn, thấy vậy anh nhắm mắt lại và cầu xin Chúa trời. Nhấp nháy, anh đã vắt chân qua rào, đến theo bờ cỏ:
- Xin chào, tôi là Mike Russell.
- Tôi, Lillian Dana.
Cô rất nhanh nhẹn và thông minh. Nước mắt của cô là thật.
Mike nhanh nhảu nói:
- Này các bạn nhỏ, các bạn biết ta phải làm gì rồi chứ? Ta phải phá vụ án này.
Bọn trẻ ngước những bộ mặt thiểu não lên. Mike cố tình nói chậm rãi:
- Vụ này giống như một vụ án mạng, nó là một vụ sát nhân.
- Vâng. - Freddy ngồi dậy, lau khô mắt - và kẻ sát nhân là già Maltin.
- Chúng ta phải chúng minh việc ấy.
Cô Dana thấy mặt cậu bé đanh lại, cậu chẳng còn phải chứng minh gì cả, ánh mắt cậu nói lên điều đó. Mike cũng biết. Cô ngả người qua cậu bé:
- Nhưng chúng ta phải tránh lầm lẫn để rồi mang tiếng Bones. Bones là con chó ngoan. Đáng xây cho nó một tượng đài.
Mắt Freddy long lanh, chớp luôn.
Mike nói như thầm cám ơn:
- Tùy chúng ta có muốn tìm ra sự thực, bằng nghiệp vụ thám tử đàng hoàng, để Bones được an lòng.
- Ít nhất ta phải làm được cho Bones như vậy - Cô Dana nói trầm tĩnh và quả quyết.
Freddy ngẩng mặt lên.
Mike nhanh nhảu tiếp:
- Cái khó là người ta biết sai về sự việc. Lắm khi người ta không nhớ rõ. Họ lầm lẫn.
Freddy lại nói:
- Già Matlin nói láo.
Russell vui vẻ đỡ lời:
- Nếu ông ấy làm thì ta phải dẫn chứng. Chúng tôi đã có kế hoạch, xin cô Dana hợp tác, giúp đỡ. Fred, cậu và vài bạn đến mấy nhà quanh đây phỏng vấn vài câu. Nên chọn những em khôn lanh nhất. Tìm ra sự thực khó lắm đó. - Mike nói như khích các cậu.
Cô Dana hỏi bằng một giọng trầm bổng:
- Sau đó thì ta làm gì?
- Sau đó các em và cô, nếu cô vui lòng…
Cô Dana giật mình đứng thẳng:
- Tôi? Tôi là cô giáo, ông Russell ạ, tôi đâu có là cảnh sát.
- Không làm trước khi trời tối.
- Ôg định sẽ làm gì?
- Trò hơi bẩn.
Cô giáo cắn môi lưỡng lự:
- Trò lén lút thọc mạch, không nên làm.
Russell đồng ý:
- Vâng, cô có thể mất việc.
Cô giáo trẻ không đến nỗi xấu. Đôi mắt thanh tú, đôi mày nghiêm nghị, lại thêm cái lúm đồng tiền trên má nữa chứ. Cô khoát tay:
- Thôi được, tôi sẽ đề cập tới mỹ cảm trong văn chương hay đề tài nào đó. Sẽ hỏi những câu hỏi nào?
Cô có sẵn tập ghi và cây bút chì thô ra khỏi ví, trông có vẻ tinh ranh và có khả năng.
Giờ đây, khi cả bọn tụ tập lại, bầu không khí âm mưu bí mật ấm lên dần. Russell cảnh báo họ:
- Việc sẽ công phu tỉ mỉ lắm đấy.
Anh thảo ra vài câu hỏi:
- Rồi, đừng có để ai lỡm mình, cho một câu trả lời tưởng là đúng nhưng thật sự là sai đấy.
Anh tóm tắt lại:
- Hỏi tại sao họ biết điều đó. Lấy những bằng chứng thực. Nhưng đừng đến nhà cụ Matlin. Để tôi đến đó cho.
- Cháu không sợ ông ấy - Cánh mũi Freddy phồng lên.
- Tôi nghĩ là tôi mới có nhiều dịp tìm ra câu trả lời ở đó. Ta cần tìm ra câu trả lời, phải không nào?
Freddy nuốt nước bọt:
- Và nếu kết quả lại hóa ra…?
- Nó sẽ hóa ra đúng theo cách sự việc xảy ra. - Russell vừa nói vừa xoa đầu cậu bé tóc vàng khuyến khích - Chọn phụ tá của em cho chiến vào, nhớ đấy.
- Em chọn Phil Emic.
Các cậu chưa được phân công tác đứng im phụng phịu khi cô giáo và ba đứa chẳng lớn hơn bao nhiêu đứng dậy.
Cô Dana nghiêm trang nói:
- Việc này khó đấy, ông Russell ạ. Dù chưa biết ông là ai, nhưng cũng cám ơn ông đã mời tôi tham dự vào vụ này.
Anh cúi nhìn cô giáo, ôn tồn nói:
- Tôi cũng chỉ là người lạ ở đây nhưng cô lại là bạn và cô giáo của Freddy.
Nét đau khổ thoáng qua mắt cô.
- Cô biết, cô đang dạy học đấy.
Cô ngẩng đầu cao:
- Được rồi, các em, cô sẽ cầm sổ tay và bút chì. Freddy, lau mặt đi. Phil bỏ áo vào trong quần. Bây giờ chúng ta tổ chức, phân công…
Gần chín giờ tối, cô giáo và mấy cậu bé đã mệt nhoài, mới trở về đến nhà ông thẩm phán. Russell, với vẻ mặt căng thẳng, đưa tay nhận mấy tờ giấy từ tay cô giáo.
Cô Dana lên tiếng:
- Khoan đã, thưa thẩm phán, làm ơn cho chúng tôi phỏng vấn vài câu.
Emic Allen rụng hết cả răng cửa, bước lên đầu.
- Hôm nay Ngài có trông thấy con Bones không? - Cậu tỏ ra đã nắm vững kỹ thuật hỏi các câu hỏi lập lại.
Ông thẩm phán gật đầu.
- Ngài thấy nó bao nhiêu lần và khi nào?
- Một lần. Ờ… ngay trước ngọ. Nó băng qua sân cỏ nhà tôi, đi về hướng Đông.
Những cậu bẽ chăm chú ghi vào sổ tay. Rồi Freddy môi hé mở, căng thẳng hỏi:
- Làm sao mà Ngài biết được giờ ạ?
- Được, hừm… để tôi nghĩ đã. Tôi đứng nhìn ra cửa sổ đợi đón khách của tôi. Ngay sau đó ông ấy tới.
Mike nhắc:
- Một giờ kém năm, thưa Ngài.
Fleddy xoay người hướng về Mike:
- Làm sao mà ông biết chắc như vậy?
- Tôi xem đồng hồ của tôi. Tôi đã được tập quen đến sớm hơn năm phút khi được mời dự tiệc.
Các cậu gật gật đầu đồng ý, cô giao ghi vào sổ tay.
Thẩm phán xác nhận lại ra chiều suy nghĩ:
- Như vậy là tôi nhớ lầm. Đúng ra là trước một giờ một chút.
Tới phiên Phil Bourchard:
- Ngài có thấy ai vào đường xe hay sân cỏ sau nhà cụ Matlin không ạ?
- Tôi không thấy ai.
- Ngài có ra ngoài nhà hay nhìn về hương đó không ạ?
- Có, tôi - khi chúng ta rời bàn ăn thì mấy giờ nhỉ, Mike?
- Hai giờ ba mươi ạ.
Freddy Titus xen vào:
- Làm sao mà ông biết giờ chính xác thế ạ?
- Vì tôi muốn biết mình co thể nấn ná lại thêm ít phút mà vẫn giới hạn trong phép lịch sự không?
Russell nháy mắt chúc mừng cô Dana đã thành lập được nhóm thám tử này, và Freddy đóng vai kiểm tra thời gian chính xác.
Phil tiếp tục thẩm vấn ông thẩm phán:
- Ngài có thể đoan chắc không có ai lảng vảng ở sân cỏ sau nhà cụ Matlin vào lúc đó không ạ?
- Trong tầm mắt tôi nhìn được thôi.
Freddy nói ngay:
- Ngài thẩm phán không thể nhìn xa được, nhiều cây quá. Chúng ta không thể mong ông ấy đoan chắc điều đó được.
Bọn trẻ ngước nhìn cô giáo, cô đánh dấu vào sổ.
- Cám ơn Ngài thẩm phán. Ngài có bà nấu bếp chứ ạ? Chúng tôi cần phỏng vấn bà ấy.
Ông thẩm phẩm đứng dậy, cúi đầu chào:
- Xin mời đi lối này.
Russell nhìn theo họ, ánh mắt anh lại bình thản, mượt như nhung. Anh bắt gặp cái nháy mắt của ông thẩm phán. Anh ngồi xuống xem mấy tờ giấy cô giáo đã đưa. Xem xong tờ nào, anh đưa cho chủ nhà tờ đó.
Giật mình, anh ngước lên, Lillian Dana đang đứng ở cửa quan sát mặt anh.
- Anh có nghĩ rằng... Mike?"
Một tờ giấy cong xuống trong tay ông thẩm phán.
- Chúng ta không thể ngừng được. - Cô giáo lo âu cho họ biết.
Russell gật đầu đồng ý rồi quay sang thẩm phán:
- Có lẽ chúng ta cần vài viên chức cao cấp giúp đỡ, thưa Ngài.
Ông thẩm phán đứng dậy.
- Xin Ngài cho biết Matlin chơi golf ở đâu? Và số điện thoại của Đội Thu gom Phế liệu. Không, cô Dana ạ, chúng ta sẽ không bỏ dỡ vụ này, manh mối chỉ hướng nào, ta phải theo hướng đó.
Cô đồng ý:
Gần mười giờ, những người hàng xóm lục tục kéo đến. Ông thẩm phán ân cần tiếp họ. Ông cảnh sát trưởng tới. Bà Somers mặt mày nghiêm trọng, ngơ ngác, trong bộ đồ nhiễu. Cụ Matlin. Bà Page. Ông và bà Daugherty. Ông và bà Baker và cô Diane Bourchard. Cô Diane Bourchard, 16 tuổi. Họ bâng khuâng nhìn vào nhóm người nhỏ, vài cậu học trò và cô giáo tóc vàng nhạt. Người đến sau cùng là chàng thanh niên Russell, theo một hành lang tối. Nhận được dấu hiệu đồng ý của thẩm phán, anh khai mạc buổi họp.
Anh bắt đầu:
- Chúng tôi đang điều tra về cái chết lạ lùng của một con chó. Thưa ông cảnh sát trưởng Anderson, chúng tôi biết quí sở đã từng điều tra rất thành công, biết rằng các ông rất bận và vài người trong chúng tôi nóng lòng không đợi được. - Russell liếc vào kính cửa sổ tối đen. - Giờ đây, Ngài có sẵn lòng giúp chúng tôi không?
Ông cảnh sát trưởng nói bao dung:
- Sẵn lòng nên tôi mới tới đây. Chính ông thẩm phán, có uy thế mới triệu tập được buổi họp hợp pháp và có ý nghĩa này. Nếu không có cụ thẩm phán ưu tư nghiêm nghị ngồi chung với mấy đứa trẻ ngây thơ, quang cảnh còn ra thể thống gì.
- Cám ơn Ngài. Bây giờ, ai trong chúng ta cũng muốn biết cái gì đã xảy ra cho con chó. Trước hết, chúng ta loại bỏ giả thiết người lang thang. - Bà Page đã bắt đầu khó chịu. Russell mỉm cười với bà - Bà Page nhìn thấy một ông đi theo đường xe nhà ông Matlin sáng nay. Một xe tải của Đội thu gom giẻ và giấy đậu trước nhà ông Daugheny lúc mười giờ bốn mươi hai phút. Người đàn ông mặc đồng phục có vẻ luộm thuộm, đi xuống nhà chứa dụng cụ, sau nhà xe, để lấy túi phế liệu mang ra xe. Sự thật là vậy, thưa bà Page.
Vậy mà bà Page cũng đỏ mặt tía tai lên
- Ông công nhận đang có mặt ở đấy. Ý nghĩ của bà về ông ta, không phải là nói dối, mà chỉ là nghĩ lầm. - Russell quay mặt lại thính giả chính - Bây giờ nói đến con chó làm những gì buổi sáng đó và chúng tôi đã làm có kết quả rất tốt.
Khi anh trình bày những hoạt động liên tục của con chó, vài khuôn mạt đã tươi cười khi mường tượng con chó nhỏ đang lon ton trong khu phố. Mike tiếp:
- Lúc một giờ, Bones băng ngang nhà Ngài thẩm phán sang chỗ bọn trẻ đang đá bóng bên nhà bà Allen. Từ lúc này, không ai thấy con Bones trên hẻm Greenwood hay trên đường Hannibal. Nhưng, cô Daine Bourchard mới khỏi viêm họng nên ở nhà, không đi học. Sau khi ăn trưa, cô ngồi dưới vòm cửa, trông thẳng vào sân cỏ sau nhà cụ Matlin. Cô đang đợi giờ tan học, hy vọng có bạn cùng lớp đi ngang qua.
- Chẳng những cô thấy con Bones mà còn cả con Corky của ông bà Daugherty nữa, chúng đùa giỡn ở sân cỏ sau nhà ông Matlin, vào khoảng hai giờ chiều. Xin quí vị cho biết ý kiến, nếu có bã độc để ở đây thì liệu con Corky có tìm thấy và ăn không?
Ông Daughelty nêu ý kiến:
- Có thể con Corky sẽ ăn lắm, nhưng cám ơn trời, nó đã không ăn phải. - Ông liếm môi, rồi buột miệng - Corky là con chó biểu diễn.
Russell dịu dàng tiếp:
- Nhưng Bones còn quí hơn một chút, nó là bạn của người. Bởi vậy chúng tôi quan tâm.
Ông Daucherty nhìn quanh, giận dữ:
- Thật mắc cỡ.
Bà Baker nói:
- Vâng, đúng nó là bạn của người. Nó là một người bạn của tôi.
Ông Daugherty nổi cáu, càu nhàu:
- Nói tiếp đi, xem ông còn tìm ra cái quỉ quái gì nữa?
- Ông Matlin ra khỏi nhà đi chơi golf lúc mười một giờ ba mươi phút. Vậy quí vị thấy, cụ Matlin chắc không có thể để bã lại.
Ông Matlin nhanh nhảu nói ngay:
- Tôi khẳng định là tôi không đánh bã. Tôi cũng đã nói vậy trước đây. Tôi hết chịu nổi cái trò ám chỉ úp mở này rồi. Tôi không hề nói láo. Ông nói, đây là một buổi họp?
Ông cụ nhìn Mike chằm chằm.
Anh nói:
- Chúng tôi chỉ muốn tìm hiểu xem, chuyện gì đã xảy ra cho con chó thôi.
Cụ Matlin im lặng.
Mike tiếp tục thuyết phục:
- Chắc chắn quí vị thấy con người rất yếu đuối, chúng ta còn vài lầm lẫn nữa đã nói lên chiều nay. Ít nhất tôi sẽ nêu lên một.
- Thưa ông bà Baker, ông bà làm việc trong vườn suốt buổi chiều nay. Con Bones bỏ chỗ chơi banh đến thăm con Smitty nhà ông bà. Lúc ba giờ ông bà bàn tắm cho con Smitty kẻo sẽ trễ quá. Khi con Smitty bị bắt đi tắm, con Bones vẫn còn ở đó. Vậy thì quý vị thấy, cô May Matlin nói đã thấy con chó nằm chết cạnh lối đi trước lúc ba giờ là lầm lẫn.
Cụ Matlin vặn râu. Russell nói gãy gọn:
- Lời chứng của ông bà Bakers thật vũng chắc.
Vợ chồng ông Bakers da rám nắng ngăm ngăm như nhau vì cùng làm việc ngoài trời, gật đầu tán thành lia lịa.
- Lúc cụ Matlin về nhà cũng được xác định rõ. Cô Diane thấy cụ. Bà Daugherty ở bên cạnh, định ngủ trưa một chút lúc ba giờ năm phút, bà phải dậy lúc bốn giờ ba mươi phút để làm một món chiên. Vì thế bà rất chắc chắn về thời gian. Bà lên lầu, và cũng từ một cửa sổ trên đó, bà cũng thấy ông Matlin về. Cả hai nhân chứng, cô Daine và bà Daugherty đều thấy ông Matlin lái xe về lúc ba giờ mười phút. Ông ra khỏi xe, đi vòng quanh nhà, sang bên phải nhà, phía có sân cỏ.
Ông cụ Matlin đổ mồ hôi hột, ngồi im thin thít.
Mike chuyển giấy.
- Bây giờ tới chuyện bọn trẻ tập trung trong bếp nhà Phil Bourchard lúc ba giờ kém mười lăm phút. Trong khi đó, thấy Smitty vào nhà tắm, Bones tránh xa nước và xà bông là điều tự nhiên. Nó đi ra đường Hannibal lúc ba giờ đúng. Theo linh tính của loài chó, nó biết ngay Freddy đang ở đâu. Chúng ta có thể hiểu được Bones sẽ đi dọc phố Hannibal, lên quá hẻm Greenwood không?
Ông Daugherty vừa nói vừa nhìn cụ Matlin:
- Có thể hiểu như vậy, vả lại sau đó xác nó tìm thấy trên hẻm Greenwood một chút.
Mike nói chậm rãi:
- Không thấy ai khác ở sân sau nhà ông Matlin trừ ông ấy. Còn nữa, hầu như ngay sau khi ông Matlin về, con chó nhỏ chết ở đó.
- Cô Daine chẳng đã...?
- Các bạn cô tới lúc ba giờ mười hai phút. Các lời khai của họ không đáng tin.
Daine đỏ mặt.
- Việc này, chuyện này thật hết chịu nổi! Sao nó lại chết trong sân cỏ sau nhà tôi cơ chứ!
Cụ Matlin la khản giọng.
Ông Daugherty cũng nói chặn trước:
- Tôi cũng nói với các ông là chẳng có gì độc xung quanh nhà tôi cả.
- Sao ông biết được?
Cụ Matlin hỏi như khẩn khoản mong một tia hy vọng minh oan. Mắt Freddy hoen lệ theo dõi Mike.
- Sao nó lại không thể bị từ trên đường, do một cái xe chạy qua chứ?
Mike lên tiếng:
- Tôi thấy chuyện đó khó xảy ra. Các ông thấy đó. Ông Otis Carnavon đóng chốt ở ngã tư Hannibal và Lee, cố phất cờ hiệu cho xe chạy đều. Liệng cái gì từ trong xe ra chắc ông phải trông thấy.
Ông Daugherty muốn biết:
- Có lẽ thuốc độc mạnh chăng? Nó chết vì thứ gì?
- Thứ thuốc cực mạnh, nó không thể đi xa được sau khi ăn phải. Nó ăn phải Cyanide.
Cụ Matlin đưa đôi tay run rẩy lên gỡ cặp kính ra. Chúng ướt đẫm mô hôi và nước mắt. Mike tiếp:
- Chắc có vài người trong quí vị đây là nhiếp ảnh viên tài tử. Chắc cụ cũng có một ít Cyanide trong phòng tối, cụ Matlin?
- Có, nhưng tôi giữ nó... rất thận trọng...
Cụ Matlin bắt đầu ho, khi cơn ho của cụ đã êm. Mike tiếp:
- Thuốc được nhét trong thịt xay, khi phân tách, chúng gồm một nửa là thịt bò, nửa còn lại là thịt bê và thịt heo.
Cụ Matlin xoa cổ bằng các ngón tay:
- Tôi đã hỏi các tiệm bán thịt quanh đây. Bốn tiệm tất cả, họ giao thịt xay cho năm nhà quanh khu này. Sau những phút ma dẫn lối, quỉ đưa đường, tôi tìm được loại thịt có thành phần như phân tách trên được giao lúc mười giơ sáng nay cho nhà ông Matlin.
Trong phòng nhốn nháo lên một bầu không khí bất bình. Ông cảnh sát trưởng đổi thế ngồi trên ghế kêu sột soạt.
Ông Daugherty gầm lên:
- Có vẻ như bắt đầu...
Russell cướp lời và nói rõ:
- Đến đây, chúng ta phải thận trọng, còn một vấn đề nữa: thịt xay đã được ướp.
- Được ướp!
- Với muối và bách lý hương.
Ông Matlin rên rỉ:
- Bách lý hương!
Freddy ngước nhìn cô giáo với đôi mắt ngỡ ngàng, cô bá vai em.
Mike nói nhỏ nhẹ:
- Về các động cơ giết con chó thì tôi không dám bàn, nhưng thật không thể tưởng tượng được lại có người có thể đánh bã một con chó con.
Không ai thốt nên lời.
- Tuy nhiên, chúng ta đã giải quyết được đến đâu?
Giọng Mike vang lên có vẻ như kịp thời giữ cụ Matlin không ngất xỉu và văng ra khỏi ghế.
- Chúng ta vẫn chưa biết con chó ăn thuốc độc như thế nào và chết như thế nào. - Giọng Mike vút lên cao hơn. Cụ Matlin, cụ có thể trả lời giúp chúng tôi câu hỏi đó không?
Cụ Matlin nói có vẻ thân mật:
- Tốt hơn là ông mời mấy em bé ra ngoài đã.
Cô Dana quay người để ra ngoài, nhưng Mike đã nói:
- Không, các em đã làm việc vất vả để tìm ra được sự thực. Các em đã tìm ra một phần, nếu còn sự thật sẽ được biết các em sẽ phải được biết.
- Ông biết hết rồi phải không? - Cụ Matlin hỏi nhỏ Mike.
- Tôi gọi câu lạc bộ golf của cụ, tôi đã xem lò đốt rác của cụ. Vâng, tôi đã đoán ra hết. Nhưng chúng tôi muốn chính cụ nói cho chúng tôi biết.
Ông Daugherty dồn dập:
- Sao, sao hả?
Cụ Matlin che mặt.
Mike ôn tồn:
- Tôi nghĩ rằng vẫn còn một lầm lẫn. Tôi e rằng. cụ Matlin dù có làm con Bones chết vì thuốc độc, nhưng cụ không cố ý và cũng chẳng biết mình đã giết con chó.
Cụ Matlin nói:
- Rất tiếc... vì.. Tôi không thể... cô ấy cố làm tốt nhất, nhưng cô ấy lại nấu dở quá. Ai đó đã cho cô ấy những thứ cỏ đó, cỏ bách lý hương. Cô bỏ cỏ này vào mọi món. Cô ấy làm cho tôi một hộp bữa ăn trưa, nhưng tôi không ăn nổi món ăn của cô. Tôi ăn trưa ở câu lạc bộ.
Mike gật đầu như xác nhận. Cụ Matlin nói tiếp, giọng cụ vỡ ra:
- Tôi không bao giờ… Các ông thấy đó, tôi cũng chẳng biết chính vì con chó ăn thịt mà chết. Cô ấy nói, cô ấy bảo tôi con chó đã chết từ trước rồi.
- Vâng, nhưng trong lúc cụ tức giận chính đáng, hiển nhiên cụ cũng tự hỏi vì sao mà con chó chết chứ?
- Ông Russell, tôi không nói dối. Làm sao tôi biết có bách lý hương trong đó? Về đến nhà tôi phải thủ tiêu cái bánh kẹp thịt cô ấy đã làm cho tôi ăn trưa, tôi không muốn làm tổn thương tình cảm của cô ấy. Cô ấy đã cố cố hết mức...
Cụ thình lình đứng bật dậy, nói với đôi mắt hầu như lồi ra khỏi hốc:
- Những gì cô ấy cố làm hôm nay là để giết tôi!
Đôi mắt lồi của cụ quét một vòng rồi ngừng ở Freddy.
Cụ há hốc miệng rồi hổn hển nói:
- Chó của cậu đã cứu mạng tôi!
Mike nhanh nhảu đỡ lời.
- Vâng, chính chó của Freddy đã cứu mạng cụ. Cụ thấy đó, con gái ghẻ của cụ sẽ còn tìm đủ mọi cách giết cụ.
Mọi người nín thở.
- Cụ bỏ các ổ bánh trong thùng đốt rác - Mike tiếp. Cô ấy đã đoán ra cái gì gây cho con chó chết, cô ra thùng rác lấy những cái bánh giấu đi. Nhưng cô ấy đã trễ vì chuyện om sòm đã xảy ra. Cô ấy đành nói láo.
Cảnh sát trưởng Anderson đứng dậy. Cụ Matlin cuống cuồng nói:
- Mẹ cô ấy... Mẹ cô...
Mike Russell đặt tay lên đôi vai thõng của cụ.
- Mẹ cô ấy rất đau khổ vì tình trạng thù địch giữa cụ và cô ấy. Cụ có nghĩ là mẹ cô ấy có linh cảm thấy gì khác lạ không?
Cô Lillian Dana choàng Freddy trong vòng tay.
- Ôi, con Bones thật tuyệt! - Cô cố nói át các giọng khác. Ngay cả khi nó chết, nó cũng cứu được một mạng người. Freddy ơi, Bones là con chó tuyệt vời.
Và Freddy, tuy không hiểu khúc sau người ta nói gì, cũng đã được giải thoát những ẩn uất qua nỗi buồn và tiếng khóc thút thít cho con chó bạn mình.
Khi người ta đến tìm May Matlin, cô ta không có nhà. Người ta bắt được cô trong nhà chứa đồ của gia đình Titus ở sau nhà. Cô như đang tìm kiếm vật gì.
Hôm sau, ông bà Titus về đến nhà. Tuy con Bones đã mất, nhưng Freddy của họ vẫn bình an. Ông thẩm phán, Russell và cô Dana đã kể hết với họ.
Bà Titus khóc, ông Titus thì hứa chăm sóc Freddy hơn. Ông lắc tay Russell.
- ... Cám ơn vì đã lấy khẩu súng đi.
Nhưng bà mẹ thổn thức lớn tiếng:
- Cám ơn vì đã chỉ cho con... dạy cho con chứ ông... Ôi, cô Dana thân thương của tôi!
Ông thẩm phán đứng trong hành lang vẫy chào, khi một mái tóc đen và một mái tóc vàng lái xe ra đi.
Ernic Allen nói:
- Tớ biết là cô Dana khoái ông ấy.
Freddy vặn lại:
- Sao mà cậu biết chắc được?