Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ của lưu trú học sinh các trường trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết hạn , rồi lắm khi thân đến suốt đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.
Oanh và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn . Đêm nào chúng tôi cũng ra hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc nhà thương phát cho.
Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.
VớI lại cái thú kéo nhau xuống nhà xác , rồI hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, chạy đến vắt giò lên cổ.
Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té , nhờ tôi đỡ kịp. Không hiểu sao kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng thắn với nhau được nữa.
Ra nhà thương , tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.
Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là câu chuyện học hành, là chương trình đại số, là phản động hóa học, là định lý hình học, chớ không còn là câu chuyện trăng , sao thú vị ở nhà thương.
Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí để tìm lại những ngày thần tiên khác.
Và chúng tôi đã tìm được.
Không nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. PhảI, nhưng con ngườI của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ không có gì tội lỗi hết.
Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên cũng chẳng rầy la gì, mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi tuốt, bỏ cơm trưa. Tối lại vào trường mới ăn.
Tôi hẹn với Oanh ra trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi nơi nầy nơi khác .
Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cướI nhau nên Oanh được bổ đi Sóc Trăng , còn tôi thì Bà Rịa.
Tuy cách trở, mà thơ từ qua lạI luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với nhau được.
Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh một ngày ! Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ tình yêu chưa toạI thì nó cứ càng ngày càng tăng.
Cả hai chúng tôi đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương lai.
Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao nức lắm và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi tiết đám cưới, thì bỗng được thư Oanh.
Oanh bảo tôi đừng xuống nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi luôn nếu tôi cãi lời Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phảI đình lại không biết đến bao giờ.
Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống, và đòi đình hôn lễ ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không ? Tôi ghen tức lên , rồi tôi đau xót không thể tả được.
Vài hôm sau, tôi định cứ đi đạI xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là phảI bật ngửa ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn xang, mà nghi hoặc.
Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không thương mình nữa thì thôi, đeo đuổI theo làm gì, Con ngườI bạc nghĩa ấy còn xứng đáng sao được mốI tình chung thủy của mình !
Thế rồi tôi nín đi hai tháng . Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.
Không chịu được nữa , tôi gởI thư, gửi liên tiếp mỗI ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm nàng ,đủ thứ việc.
Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống là nàng sẽ chết mất.
Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang, Oanh gởI cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.
Anh Niệm ơi !
Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em không còn ở trên đờI nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh thấy mặt em được cả.
Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.
Nhưng mà suy cho cùng , nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợI gì cho em cả, mà hạI cho anh không biết bao nhiêu.
Vậy anh cứ xem là em đã chết rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng tìm được em đâu. Mà tìm làm chi , nếu anh muốn mốI tình đôi ta cứ còn chớm nở mãi mà không tàn rụng bao giờ.
Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục mà có. Tránh ích kỷ kia lạI phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao giờ anh hiểu được đâu.
Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em không ?
Nhưng em là gái mà em đã can đảm được , thì anh cũng nên theo gương em. Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồI lập gia thất. Trong đờI chắc không thiếu chi ngườI đáng yêu hơn em, anh đừng có lãng mạn lắm mà thiệt thân.
TrờI ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột tôi ! Anh ơi, em chết đây !
Dưới thư không có lời chào nào, cũng không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa hết.
Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồI đánh điện ngay cho ông Hiệu trưởng trường Sóc Trăng , vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e bị quở nếu xin nghỉ nữa.
Điện tín , tôi viết như vầy :
Trân trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh .
Ông ấy đáp :
Oanh thôi việc. Đi không để lại địa chỉ.
Hừ, thế nầy là làm sao ? Thoạt tiên, tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai, có nghén nên sợ xấu và sợ tội ( trong giáo giới ngườI ta nghiêm khắc về hạnh kiểm của giáo viên lắm ) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.
Nhưng xem kỹ lại lờI thư thì không phải vậy.
Hay là ? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để chết.
Nhưng cũng không phảI . Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2) , thì dại gì nàng phảI làm như vậy.
Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu ? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.
Oanh ngườI Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó . Tôi vừa vào tớI sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.
- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi à ! Ơ…..Ơ.. trời ơi là trời , con tôi chết.
Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lạI ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗI gì đối với tôi cả.
Tôi chỉ ngậm câm , khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.
Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa
Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu
Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.
Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng :
- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ …. con đến – ông cụ ngập ngừng trước tiếng “con “, ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy- hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó . Ngỡ như vậy là xong , nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.
Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.
Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy .
- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn…..
- TrờI ! Tôi kêu thầm
- Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó , ba đời liền , không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ lìên rồi mới xuất hiện trở lại.
Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng , vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.
Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên : da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.
Về sau , nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh . Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.
Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm ,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.
Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổI trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.
Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con , rồI lùi về đây.
Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó , nên trong một lúc tuyệt vọng kia , nó hủy mình
Trời ơi, bấy giờ tôi mớI hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tạI sao nàng bảo là nàng ích kỷ .
Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng , y như ngườI quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.
Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu . Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.
Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.
- Anh thấy không . Niệm tiếp, làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thờI ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh , còn nghe như Oanh còn sống đâu đó . Tuổi tôi cứ chồng chất lên , nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.
Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lướI mùng “tuyn”, các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.
Ánh đèn chong xanh xanh gợI lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giớI ma quái mà trong đó hồn ngườI xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.
Dưới sân đen ngòm , nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.
Những bóng ma của dĩ vãng !.
Điển Tín , 1950.
Chú Thích.
(1) : Tôi không nói được tiếng Anh.
(2) : Thuở ấy, tuy chưa có thuốc trụ sinh, nhưng bịnh lao nhiều trường hợp cũng trị khỏi được.