Trước khi rời khỏi thánh điện trên nóc bằng của ngôi đền Denderad, tôi nhìn xem một vòng Hoàng Đạo (Zodiaque) rất đẹp khắc trên trần. Tôi biết rằng đó chỉ là một phó bổn đã được sao lục lại, vì bổn chánh đã bị tháo gỡ và đem về Ba Lê cách đây trên một thế kỷ. Nhưng phó bổn được sao lại một cách hoàn toàn đúng đắn.
Cái vòng tròn đó chứa đầy những hình ảnh các loài thú, hình người và các vị thần, được sắp chung trong một bầu tròn và ở chung quanh là mười hai cung Hoàng Đạo. Tô điểm thêm cho cái biểu tượng này, có hình mười hai vị thần và nữ thần khác nhau, kẻ đứng, người quỳ, sắp chung quanh hình bầu tròn, hai tay đưa lên, lòng bàn tay duỗi thẳng nối tiếp nhau thành một vòng tròn.
Như thế, toàn thể vũ trụ luân chuyển không ngừng được hình dung nơi đây một cách chính xác, tuy rằng dưới hình thức tượng trưng. Đó chính là sự trình bày những bầu thế giới luân chuyển theo một nhịp độ bất di dịch trên một nền trời. Những người biết suy nghĩ, dẫu rằng là người có óc hoài nghi nhất, không khỏi cảm thấy thán phục cái trí óc thông minh tuyệt vời đã làm kiểu mẫu cho cái vũ trụ đó.
Hiểu một cách đúng đắn, thì vòng Hoàng Đạo của đền Denderad hình như mô tả hình trời ở vào một thời kỳ nhất định nào đó trong quá khứ. Vậy đó là thời kỳ nào? Đó là một vấn đề khác. Chúng tôi không thể nêu ra đây những sự giải thích thiên văn trừu tượng và phức tạp. Chỉ biết rằng vị trí các tinh tú ở vào thời đó không trùng hợp với thiên tượng mà người ta quan sát vào thời nay. Xuân Phân Điểm (équinoxe du printemps) không chiếm cùng một vị trí như hiện nay, theo đó mặt trời đang đi vào một chòm sao khác hẳn.
Sự biến chuyển lớn lao đó diễn ra bằng cách nào? Do bởi sự xoay vần của trái đất, mà cái trục liên tục nhắm vào những vì sao Bắc Đẩu khác nhau. Điều đó có nghĩa là Mặt Trời của chúng ta luân chuyển chung quanh một ngôi định tinh riêng của nó. Sự luân chuyển tế vi, khó nhận thấy, của Đường Phân Điểm (équinoxe) trải qua một thời gian dài và chậm chạp, cũng thay đổi những vị trí mọc và lặn của vài bầu tinh tú đối với chòm sao. Khi đã đo lường sự vận chuyển trung bình của những bầu tinh tú đó, người ta biết có bao nhiêu ngàn năm đã trôi qua kể từ khi chúng nằm ở vị trí đầu tiên. Khoảng cách biệt đó gọi là Tuế Sai (précession des équinoxes). Đó là điểm giao tiếp của đường xích đạo và đường Hoàng Đạo, là chỗ đánh dấu xuân phân điểm, di chuyển một cách chậm chạp trên bầu trời theo cái tuế sai đó.
Nói cách khác, đều đó có nghĩa là những tinh tú di chuyển ngược chiều với mười hai cung Hoàng Đạo, và mỗi năm chỉ vượt qua một phần tối thiểu của không gian. Sự luân chuyển vĩ đại đó của các tinh cầu trên nền trời, thứ vũ trụ kế mà nền trời là cái mặt đồng hồ, trên đó người ta có thể đọc cả hai chiều và ghi nhận những cuộc vận hành của các tinh cầu trong nhiều ngàn năm.
Khi xem xét một bản đồ thiên văn cũ, một nhà thiên văn học có thể xác định bản đồ đó được thiết lập vào thời kỳ nào. Việc nghiên cứu cái dĩ vãng xa xăm đôi khi có thể giúp cho ta tìm ra những sự kiện vô cùng quan trọng. Khi các nhà tháp tùng theo Napoléon sang Ai Cập phát hiện ra vòng Hoàng Đạo tai đền Denderad, họ lấy làm vô cùng phấn khởi, và tưởng rằng họ đã tìm được cái chìa khóa để tri nguyên ra khoảng thời gian của nền văn minh cổ Ai Cập, vì họ thấy trong vòng Hoàng Đạo đó, xuân phân điểm cách xa vị trí của nó bây giờ. Nhưng mãi về sau, khi người ta nhận thấy rằng ngôi đền này chỉ mới dựng lên vào thời kỳ đế quốc Hy Lạp La Mã và vòng Hoàng Đạo Ai Cập này đã phối hợp một Hoàng Đạo Hy Lạp, vấn đề này mới bị dẹp bỏ và từ đó người ta không theo vấn đề đó nữa.
Một ý kiến cho rằng vòng Hoàng Đạo này chỉ là của Hy Lạp, nhưng đó là một ý kiến sai lầm. Phải chăng nói như thế là kết luận người Ai Cập không có vòng Hoàng Đạo của họ? Nếu vậy thì giới tăng lữ Ai Cập đã từng khảo cứu khoa chiêm tinh và khoa thiên văn trong bao nhiêu ngàn năm, trước khi người Hy Lạp đặt chân lên xứ Ai Cập, mà lại không có vòng Hoàng Đạo chăng? Giới tăng lữ Ai Cập đã từng tôn trọng khoa chiêm tinh đến nỗi họ đã xáp nhập khoa này vào tôn giáo của họ, làm cho họ có thể thực hành khoa chiêm tinh mà lại không có một vòng Hoàng Đạo? Ngoài ra những vị tăng lữ Ai Cập cũng rất tinh thông về khoa thiên văn.
Thật vậy, người Ai Cập đã sao lục một phần vòng Hoàng Đạo của họ theo bản chính đã có từ trước tại đền Denderad, ngôi đền này đã được xây đi dựng lại nhiều lần. Một tài liệu thiên văn như thế hẳn là phải được sao lục làm nhiều phó bổn để bảo đảm cho nó được tồn tại muôn đời. Những tài liệu văn khố cổ xưa cũng được bảo trì bằng cách đó, nhưng lại bị rơi trong quên lãng và rốt cục đã biến mất theo những nhân viên bảo trì văn khố, tức là những vị tăng lữ thời cổ Ai Cập.
Những nhà khảo cổ đã phát hiện tại xứ Mésopotamie những viên gạch cổ xưa, trên đó các nhà thiên văn xứ ấy đã ghi nhận rằng mùa xuân bắt đầu khi mặt trời đi vào chòm sao Kim Ngưu. Vì lẽ rằng trong kỷ nguyên Thiên Chúa, ngày đó được ghi nhận là ngày Mặt Trời đi vào chòm sao Bạch Dương, tức là ngày 21 tháng 3 dương lịch, người ta nhận thấy tằng một sự thay đổi lớn lao như thế đưa nền văn minh xứ Chaldée thụt lùi về một thời kỳ dĩ vãng xa xăm nhất, đúng như chính người Chaldée đã tuyên bố. Cũng như thế, cứ xét vị trí của đường điểm phân trong vòng Hoàng Đạo của đền Denderad, thì nó đánh dấu một thời kỳ thái cổ hàng bao nhiêu thế kỷ. Nhờ đó, người ta truy nguyên ra nền văn minh cổ nhất của Ai Cập ở vào thời kỳ nào. Cái vị trí đó chỉ rằng từ đó đến nay, có trên ba "đại niên" rưỡi đã trôi qua trên vũ trụ kế, tức là mặt trời đã xoay vòng chung quanh ngôi định tinh của nó trên ba lần rưỡi.
Sự kiểm điểm chính xác những thống kê thiên văn xác định rằng sự xê dịch trung bình của tuế sai là 50.2 giây mỗi năm, do đó người ta có thể tính trong dĩ vãng để đi đến điểm quy định bở vị trí của Hoàng Đạo đền Denderad. Ví vòng lớn của Hoàng Đạo chia làm 360 độ, nên khoảng tuế sai 25,800 năm lập thành một chu kỳ "đại niên." Như thế, mỗi chu kỳ trọn vẹn của mặt trời trải qua không dưới 25, 800 năm, tính ra thì ít nhất là 90,000 năm đã trôi qua kể từ cái ngày được ghi nhận trên Hoàng Đạo đền Denderad.
Chín mươi ngàn năm! Phải chăng đó là một điều khó tin? Những vị tăng lữ thông thiên văn Ai Cập không chấp nhận điều đó. Sử gia Hy Lạp Hérodote thuật lại lời các tăng lữ đã nói với ông rằng dân tộc Ai Cập tự cho là dân tộc cổ xưa nhất thế giới, và họ cất giữ trong các đạo viện và các đền thờ cổ những văn khố tài liệu xưa đến 12,000 năm trước khi ông đến viếng xứ này. Người ta biết Hérodote đã thu thập các tài liệu lịch sử một cách thận trọng tỉ mỉ là dường nào, và ông thực sự xứng đáng gọi là "Người cha của lịch sử." Các vị tăng lữ đó còn nói với ông rằng "Mặt trời đã từng mọc lên hai lần ở tại chỗ mà ngày nay nó lặn, và trái ngược lại." Lời khẳng định lạ lùng này ngụ ý rằng hai miền cực địa của trái đất đã hoàn toàn đảo lộn những vị trí đầu tiên của chúng, điều này ám chỉ rằng trên địa cầu đã từng có những cuộc biến thiên vĩ đại đã làm thay đổi cục diện các vùng lục địa và đại dương. Những cuộc sưu tầm địa chất học đã xác nhận điều đó, nhưng còn những thời kỳ xảy ra những cơn biến thiên đó thì thụt lùi về một cái dĩ vãng xa xăm tịt mù.
Một hậu quả khác là khí hậu ở các vùng địa cực ngày xưa không phải lạnh lẽo mà đó là khí hậu của miền nhiệt đới. Trạng thái đó của quả địa cầu chỉ có thể gây ra bởi những sự biến chuyển vĩ đại trong không gian, và điều này đã chúng thực lời nói của các vị tăng lữ Ai Cập.
Những vị tăng lữ ấy không hề biết gì về khoa địa chất học hiện đại, họ chỉ có những tài liệu cổ khắc trên mặt đá của những cây thực tiễn, trên những tấm bia đá, những mâm đồng, hoặc viết trên lá cây chỉ thảo. Ngoài ra còn có những giáo điều và lịch sử bí truyền chỉ được tiết lộ trong khoa Huyền Môn, hoặc được truyền khẩu cho môn đồ trong các đạo viện trải qua bằng bao nhiêu thế kỷ.
Bằng cách nào giới tăng lữ, tuy không biết gì về địa chất học, lại biết được những sự biến thiên và dời đổi cuộc diện trên địa cầu, nếu không phải là nhờ những tài liệu cổ của họ? Sự hiểu biết đó càng xác nhận sự kiện rằng họ đã nắm giữ được những tài liệu đó, và cũng giải thích sự hiện hữu của những vòng Hoàng Đạo chính cống mà bổn Hoàng Đạo của đền Denderad chỉ ghi chép lại một phần.
Do những sự việc kể trên, một khoảng thời gian 90,000 năm không còn là chuyện mơ hồ khó tin. Điều đó không nhất thiết có nghĩa là nền văn minh Ai Cập. Có thể rằng dân tộc và nền văn minh Ai Cập đã từng có trên một vùng lục địa khác và chỉ di cư sang Châu Phi trong một thời kỳ về sau này.
Lịch sử Ai Cập bắt đầu ở triều đại thứ nhất, nhưng ta phải nhớ rằng xứ ấy đã từng có người ở từ lâu trước thời kỳ của tài liệu cổ xưa nhất còn tồn tại đến bây giờ. Lịch sử của dân tộc Ai Cập cổ xưa và những tên tuổi của những vị vua chúa của họ là những điều mà các nhà Ai Cập học không hề biết. Lịch sử Ai Cập thời thái cổ dính liền với lịch sử (đã mất) của châu Atlantide. Các vị tăng lữ Ai Cập cũng là những nhà thiên văn, đã thừa hưởng vòng Hoảng Đạo của họ từ chaâu Atlantide. Đó là lý do vì sao vòng Hoàng Đạo của đền Denderad có thể cho thấy dấu vết của những cuộc vận hành tinh tú khổng lồ trải qua những giòng thời gian dài vô tận so với những vòng Hoàng Đạo của kỷ nguyên lịch sử.
Sự khám phá mỗi di tích mới của nền văn minh cổ xưa đó làm cho chúng ta phải thốt ra những tiếng kêu ngạc nhiên. Trong khi mà, theo những quan niệm của chúng ta về sự "tiến bộ" chúng ta tưởng rằng càng đi thụt lùi về dĩ vãng, thì chỉ có giống người càng thô kệch và dã man hơn, nhưng trái lại có khi ta lại thấy có những dân tộc văn minh, tiến hóa và rất tôn sùng tín ngưỡng tôn giáo. Dẫu cho ở vào một vài thời kỳ tiền sử xa xăm, cũng có những dân tộc dã man và những dân tộc văn minh sống đồng thời với nhau trên địa cầu. Khoa học, tuy đã phát họa cho ta thấy một thời quá khứ của địa cầu nó thách thức tầm hiểu biết thiển cận của chúng ta, nhưng vẫn chưa có đủ dữ kiện để trình bày đầy đủ những chi tiết về những thời kỳ đó. Nhưng khoa học vẫn tiến bộ không ngừng, và sẽ có thể làm được điều đó. Vậy chúng ta chớ nên phủ nhận một cách vội vàng những truyền thống cổ Ai Cập về con số 90,000 ngàn năm, và cũng đừng nên vội chấp nhận con số năm hay sáu ngàn năm lịch sử của nhân loại như người ta vẫn thường nhìn nhận. Tuổi của quả địa cầu luôn luôn đính chánh sự tin tưởng này của những người có một quan niệm quá nghèo nàn về tổ tiên của chúng ta, sự hiểu biết về quá trình của vũ trụ sẽ có thể đem đến cho họ, tuy không phải là một cách dễ dàng, những tầm nhãn quang bao quát và rộng lớn hơn nữa. Trong những khoảng không gian bao la vô tận, phải chăng còn có những nghĩa địa của càn khôn, ở nơi đó có những tinh cầu chết và những bầu tinh tú tắt nguội, đã từng có một thời phát triển trong những nền văn minh rực rỡ huy hoàng ngày nay đã mất?
Tôi bước xuống cầu thang và trở ra cửa ngoài đã quan sát phía bên trong ngôi đền lớn mà lúc đầu tôi đã đi qua nhanh để tìm nơi thánh điện Huyền Môn mà tôi muốn xem trước hết. Trong gian phòng rộng, hai mươi bốn cây cột lớn mang trên chớp vuông gương mặt chạm trỗ nhưng đã bị sứt mẻ của nữ thần Hathor, những mặt cột đền có khắc đầy những hàng chữ ám tự. Thật đáng buồn mà thấy rằng ngôi đền thờ nữ thần Hathor, vị nữ thần Ai Cập tượng trưng Sắc Đẹp và Ái Tình, đã thoát khỏi sự tàn phá của thời gian để rồi lại bị tàn phá nhiều hơn do bàn tay phủ phàng của con người. Hầu hết pho tượng của nữ thần đều bị chặt, đẽo bằng búa rều, do sự phẫn nộ của những người cuồng tín, những gương mặt bị sứt mẻ chỉ còn thấy những vành lỗ tai dài và những mái tóc dầy cộm. Dền Denderad là một trong những ngôi đền đồ sộ to lớn nhất của Ai Cập, và trong số nhưõng đền mà người ta còn tế lễ thờ phượng khi hoàng đế La Mã Théodose, vào năm 379 sau Thiên Chúa kỷ nguyên, ban hành một chỉ dụ ngăn cấm nền tôn giáo cổ đã suy tàn và làm cho nó chết hẳn.
Viên sứ giả của hoàng đế là Cynegius đã thi hành lệnh cấm ấy một cách vô cùng gắt gao. Ông tuyên bố đóng cửa tất cả các đền thờ và các đạo viện, ngăn cấm mọi cuộc hành lễ điểm đạo và những nghi lễ cổ truyền. Lúc đó những đám dân cuồng tín đột nhập đền Denderad, đuổi các tăng lữ và xâm phạm vào những nơi thánh điện thiêng liêng. Họ phá hủy các pho tượng nữ thần Hathor, cướp bốc những đồ vàng ngọc, chặt đẽo gương mặt xinh đẹp và chạm trổ tinh vi của nữ thần, ở bất cứ nơi nào họ đi đến.
Ở những nơi khác, sự tàn phá còn khốc liệt hơn nữa, vì người ta phá hủy các tường rào, triệt hạ những cột đền và đập tan từng mảnh những pho tượng khổng lồ, người ta tiêu diệt công trình của bao nhiêu ngàn năm. Đó là những biến thiên của nền tôn giáo mà những tín đồ lúc đầu đã chịu đựng những sự ngược đãi bắt bớ, chịu pháp nạn rồi tử vì Đạo, và cuối cùng lại dành một sự ngược đãi tương tự cho kẻ khác. Họ cho rằng bổn phận họ phải phá hủy công trình của tiền nhân, để tạo nên một công trình khác thích hợp với họ.
Lúc bước vào đền, tôi nghĩ đến các vì vua của triều đại Ptolémeé, những vì vua kiêu hãnh đã từng đến ngôi đền này trên những cổ xe thếp vàng óng ánh, trước một đám quần chúng im lặng và tôn kính. Thời đó, đã có bao nhiêu là đám rước lễ long trọng, náo nhiệt tưng bừng, diễn ra trên sân đền rộng lớn, mà ngày nay sân đền lại vắng tanh không một bóng người!
Nhìn di tích của chánh điện mà lòng tôi còn thấy buồn man mác, huống chi là những hang động âm u ở dưới hầm mà tôi đang bước đến? Những gian phòng tối đen dưới hầm này được xây bên trongnhững bức tường nền dầy kinh khủng. Vách tường cũng được tô điểm bằng những hình ảnh chạm trổ rất công phu, mô tả những cuộc lễ điểm đạo thiêng liêng ngày xưa đã từng diễn ra ở dưới hầm này.
Rời những hầm tối đen giống như những nhà mồ, tôi trở lại chỗ cửa chính. Cổng đền ngày xưa được khép bằng những cánh cửa bằng đồng rất kiên cố thếp vàng sáng chói lộng lẫy. Tôi bước ra ngoài và đi quanh một vòng chung quanh đền.
Thật khó mà tin rằng khio vua Ả Rập Abbas Pacha phát hiện ra ngôi đền này giữa thế kỷ 19, phần lớn đã bị chôn vùi dưới một đồi cát và sỏi vụn. Nó được phơi bày ra ánh sáng trở lại nhờ bởi những nhát cuốc xẻng của những phụ thợ đến làm công việc đồi cát này. Có bao nhiêu người đã đi qua vùng này ngày xưa, mà không hề biết đến cái kho tàng thiêng liêng của dĩ vãng mà họ đang dày xéo dưới gót chân của họ.
Tôi ngừng lại một lúc để nhìn lên mặt ngoài tường cái hình nổi chạm trổ chân dung nữ hoàng Cléopâtre. Vị nữ hoàng Ai Cập này lúc đương thời đã ra lệnh tu bổ bức tường chung quanh đền, hồi đó đã bắt đầu sụp lở. Để ghi tạ công đức, người ta đã tạc tượng nữ hoàng ở trên tường để làm kỷ niệm. Hoàng tử Césarion cũng được khắc tượng ở một bên nữ hoàng, giống người cha một cách lạ thường. Nữ hoàng Cléopatre, con gái của vua Ptolémée, cũng là người cuối cùng trong tất cả các nữ hoàng Ai Cập. Khi hoàng đế Jules César cầm quân vượt biển Địa Trung Hải đi chinh phục xứ Ai Cập, thì nữ hoàng Cléoâatre đã trở nên tìng nhân của vua ngay từ khi César vừa đổ bộ lên đất liền. Chính do sự trung gian của Cesar mà nữ hoàng đã hướng xứ Ai Cập đến việc liên kết với một hải đảo xa xôi, mà địng mệnh đã đặt để rằng sẽ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử Ai Cập trên 18 thế kỷ về sau! Và những quân sĩ La Mã cũng đã đem vào Anh Quốc tôn giáo Sérapis, cùng với bao nhiêu di sản tinh thần khá cnguồn gốc Ai Cập. Một sự liên lạc, tuy gián tiếp, đã bắt đầu có giữa hai nước kể từ khi đó.
Trên bức tường chạm trổ, nữ hoàng Cléopatre đội cái thứ mão tròn như cái dĩa có sừng, giống như mão của nữ thần Hathor, để bộ mái tóc dài thắt bín. Gương mặt đầy đặn và xinh đẹp, tướng mạo uy nghi của một bậc vương giả quren truyền lịnh và sai phái kẻ dưới, cương quyết thực hiện mọi kế hoạch đến cùng, bằng mọi phương tiện. Chính do ảnh hưởng của nữ hoàng mà Jules César đã nuôi cái mộng dùng thành Alexandrie làm kinh đô của đế quốc La Mã và trung tâm của thế giới. Khi Cléopâtre qua đời, thì nền độc lập của Ai Cập cũng không còn nữa.
Tôi hồi tưởng lại rằng Cléopâtre cũng là một giai nhân tuyệt sắc củu thế giới cổ xưa, và là một trong những người đàn bà đã từng đóng vai trò quyết định của lịch sử. Có ai ngờ rằng vận mệnh của một bậc vĩ nhân, vận mệnh của cả một đế quốc rộng lớn, có đôi khi lại treo lơ lửng dưới cái nụ cười quyến rũ hiện ra trên đôi môi xinh đẹp của một giai nhân?
Phần trên những vách tường đá của ngôi đền đều có khắc hàng chữ ám tự (hiéroglyphes). Truyền thuyết cho rằng loại chữ ám tự của thời cổ Ai Cập là do vị thánh sư Thoth tức Tehuti, phát minh ra. Điều này cũng có một sự thật về lịch sử. Vì chính một vị siêu nhân, một đấng Chân Sư danh hiệu là Thoth, đã đem thứ chữ này, như một sự tiết lộ của thánh thần, cho những con cháu của dân Atlante di cư sang vùng đất mới trên bờ sông Nil, trước khi những luồng sóng cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển. Vị chân sư Thoth cũng là tác giả của quyển Tử Thư (Sách của Người Chết).
Người Ai Cập mô tả chữ ám tự của họ là thứ ngôn ngữ của Thần Minh. Đó là bởi vì không những họ tin rằng loại chữ này được Thần Minh ban cho họ, mà cũng vì nghĩa ẩn dấu của nó được giữ kín đối với quần chúng và chỉ tiết lộ cho những vị môn đồ Huyền Môn đã được điểm đạo. Những nhà Ai Cập hiện đại chỉ có thể hiểu được ý nghĩa thông thường của chữ ám tự theo sự hiểu biết của người bình dân, điều đó đã là một thành quả vẻ quang rồi. Còn cái ý nghĩa ẩn dấu, bí truyền thì họ tịt mù chẳng biết gì cả. Đó là bởi vì muốn thấu triệt loại chữ ám tự, ngôn ngữ; của Thần Minh, người ta phải cần dùng đến một thứ đạo nhỡn, để hiểu biết nó trên khía cạnh tâm linh, chứ nếu không, thì không thể nào hiểu tận cùng đến chỗ sâu xa huyền diệu của nó. Điều này cũng tương tự như trường hợp của người thí sinh muốn thấu hiểu những pháp môn bí truyền được tiết lộ cho y trong các cuộc lễ điểm đạo của phái Huyền Môn Ai Cập.
Nhờ công trình của các nhà Ai Cập học, và nột phần cũng do bàn tay của định mệnh, những kho tàng tâm linh quý báu thể hiện nơi những hàng chữ ám tự khắc trên tường đá trong các đền thờ hoặc viết trong những pho sách cổ bằng lá cây chỉ thảo, mới được phiên dịch ra và lưu truyèn lại cho hậu thế.
Vai trò của định mệnh trong sự khám phá này thật là la lùng.Nếu Napoléon không đem binh viễn chinh sang Ai Cập, thì loại ngôn ngữ huyền bí khắc trên tường và viết trên giấy chỉ thảo ngày nay có lẽ vẫn còn câm lặng không hề có người đọc. Chính Napoléon vẫn từng là người của định mệnh đến một mức độ phi thường. Ông ta không hề tiếp xúc với một quốc gia nào, một cá nhân nào, hay một nhân vật naøo mà không ảnh hưởng sâu rộng đến vận mạng của họ. Ông là khí cụ của định mệnh, hay là của thần Némésis.
Cuộc viễn chinh của Napoléon sang Ai Cập đã dọn đường cho sự tìm tòi khảo cứu về cách sinh hoạt và tư tưởng xứ Ai Cập thời cổ. Khi xứ Ai Cập bị đặt dưới quyền đô hộ của Hy Lạp, loại ngôn ngữ cổ xưa này bị suy sụp. Lẽ tự nhiên là chính quyền toan tính phổ biến ngôn ngữ và nền giáo dục Hy Lạp trong những giai cấp có học thức. Những quan chức quan trọng trong chính quyền đều dành cho những người Ai Cập giữ chức giỏi chữ Hy Lạp. Nhà cầm quyền Ai Cập đóng cửa các đạo viện cổ ở Héliopolis, là nơi đào tạo rất đông những tăng lữ thời xưa và nơi truyền bá sự học hỏi ngôn ngữ Ai Cập. Trừ ra một số ít tăng lữ vẫn duy trì việc dùng tiếng Ai Cập trong vòng bí mật, chữ Hy Lạp đã thật sự trở nên một thứ quốc ngữ Ai Cập.
Đến cuối thế kỷ thứ 3 của Thiên Chúa kỷ nguyên, trong xứ Ai Cập người ta không còn tìm thấy một người nào có thể giải thích ý nghĩa thông thường bình dân của chữ ám tự cổ nữa, đừng nói chi đến việc sử dụng thứ chữ ấy. Mười lăm thế kỷ đã trôi qua. Việc dùng chữ ám tự dường như đã hoàn toàn biến mất ở Ai Cập, thì độtnhiên xuất hiện trước hải cảng Alexandrie, do một cơn bã tắp vào bến, và vượt qua sự canh tuần của hạm đội Anh dưới quyền chỉ huy của đô đốc Nelson, chiếc thuyền chở Napoleon và định mệnh của người.
Không bao lâu, quân đội viễn chinh Pháp được chuyển đến sứ Ai Cập. Người ta đào đất ở nhiều nơi để xây móng đắp nền làm những công sự phòng thủ. Một trong những địa điển lần đầu tiên được lựa chọn do bởi tầm quan trọng chiến lược của nó là vùng châu thổ sông Nil, kế cận hải cảng Rosette. Một viên sĩ quan trẻ tuổi, trung úy pháo binh Boussard, đã phát hiện một điều vô cùng quan trọng như một sự tình cờ đưa đến cái chìa khóa để truy ra ý nghĩa của các ám tự Ai Cập. Trong khia đào đất đắp nền xây pháo đài St Juluen, những quân sĩ của ông ta thình lình đào được một khối đá đen đã bể. Trung úy Boussard liền hiểu ngay rằng tảng đá này có một tầm quan trọng rất lớn vì nó có khắc chữ, đó là một sắc lệnh của giới tăng lữ thành Memphis ban bằng sắc danh dự cho vua Ptolémeé thứ 5. Bản chính bằng chữ Hy Lạp khắc trên 54 giòng, kèm theo hai bản dịch ra chữ ám tự và cổ tự.
Viên đá này được gởi về Châu Âu, tại đây các nhà bác học mới ra công nghiên cứu cho đến khi họ có thể thiết lập toàn bộ chữ cái ám tự Ai Cập tương đương với những cái Hy Lạp. Cái chìa khóa này từ đó đã giúp cho các nhà khảo cổ và Ai Cập học đọc được những bản chữ ám tự khắc trên tường và trong các sách chỉ thảo đã từng là những điều bí hiểm trong bao nhiêu thế kỷ.