Tôi không biết mình đã nằm dưới một đống những khúc gỗ và ngói nung của cái lối đi bị sập trong bao lâu nữa. Nghĩ lại, tôi nhận ra rằng hẳn lúc đó tôi đã bất tỉnh rồi, cho dù chỉ có vài phút.
Tất cả những gì tôi còn nhớ được là có vật gì đó sắc cạnh đập vào đầu tôi, tiếp sau đó, tôi mở mắt để thấy mỗi bóng tối bao phủ, có cảm giác mình ngạt thở.
Cái trò mà bọn yêu tinh rất khoái bày ra là ngồi lên ngực nạn nhân của chúng khi người ta vừa tỉnh dậy, khiến cho con người đáng thương đó có cảm giác như mình bị ngạt thở mà chẳng biết tại sao. Tôi không tài nào hiểu nổi vì sao, và trong một hay hai giây tôi nghĩ rằng mình đã thất bại và rằng Heather vẫn còn quanh quẩn trên trái đất này, đang ngồi lên ngực tôi, hành hạ tôi, trả thù vì những gì tôi đã cố làm với cô ta.
Rồi tôi lại nghĩ, Có khi mình chết rồi cũng nên.
Tôi không biết tại sao. Nhưng điều đó đang xảy ra với tôi. Có lẽ chết là cảm thấy như thế này đây. Lúc đầu là thế này. Hẳn là Heather đã cảm thấy điều đó khi cô ta tỉnh dậy trong quan tài. Cô ta hẳn cũng cảm thấy như tôi đây: bế tắc, ngạt thở, sợ hãi vô cùng. Chúa ơi, chẳng trách lúc nào cô ta cũng khó chịu đến như thế. Chẳng trách cô ta lại khao khát trở lại cái thế giới cô ta từng được sống trước khi chết. Điều này thật khủng khiếp. Hơn cả khủng khiếp ấy chứ. Nó chính là địa ngục.
Nhưng rồi tôi cử động bàn tay - phần duy nhất của tôi còn có thể cử động được - và cảm thấy có cái gì đó nặng nề và man mát đang đè lên tôi. Đó là lúc tôi biết được chuyện gì đã xảy ra. Cái lối đi đã bị sập. Heather đã sử dụng nốt chút ít năng lực điều khiển vật chuyển động còn lại để khiến tôi bị thương vì dám đuổi cô ta đi. Và cô ta đã thành công quá sức, vì giờ tôi nằm đây, bất động, mắc kẹt dưới cái đống mà ai biết được nó nặng bao nhiêu cân gỗ với lại mái ngói kiểu Tây Ban Nha chứ.
Cảm ơn nhé Heather. Cảm ơn cô cả đống luôn.
Lẽ ra thì tôi phải thấy sợ mới đúng. Ý tôi muốn nói là, tôi đang bị ghim chặt ở đây, hoàn toàn không thể cử động nổi, trong bóng tối mù mịt. Nhưng trước khi tôi có thời gian để mà sợ thì tôi nghe thấy có tiếng người gọi tên mình. Lúc đầu tôi nghĩ có lẽ mình điên mất rồi cũng nên. Đâu có ai biết rằng tôi lén đi đến trường, dĩ nhiên là trừ Jesse, và tôi đã bảo anh ấy chuyện gì có thể sẽ xảy đến nếu anh ấy dám thò mặt ra. Anh ấy đâu có ngốc chứ. Anh ấy biết tôi sắp làm lễ trừ ma. Có thể nào anh ấy quyết định xuất hiện không nhỉ? Giờ đã an toàn chưa? Tôi chẳng biết nữa. Nếu anh ấy mà xuất hiện để rồi bước vào cái vòng tròn nến cùng với máu gà đó, thì liệu anh ấy có bị lôi vào trong cái vùng đất u tối đã cuốn Heather theo không?
Giờ tôi mới bắt đầu thấy hoảng sợ.
"Jesse!" tôi kêu lên, đẩy cái thanh gỗ đè lên mặt, làm cho bụi và những miếng gỗ rơi xuống mặt. "Đừng mà!" Tôi ré lên. Bao nhiêu là bụi khiến cho tôi phát tức thở, nhưng tôi mặc kệ. "Quay lại đi! Không an toàn đâu!"
Thế rồi cái đống nặng trịch được nhấc lên khỏi ngực tôi, và đột ngột tôi nhìn được. Phía trên là bầu trời đêm, xanh mượt mà điểm xuyết những ngôi sao. Và giữa những ngôi sao ấy lơ lửng một khuôn mặt lo lắng nhìn tôi.
"Chị ấy đây rồi," Tiến Sỹ gọi, giọng nó run rẩy trong cả âm lượng lẫn độ cao. "Anh Jake, em tìm thấy chị ấy rồi!"
Gương mặt thứ hai xuất hiện cùng với gương mặt đầu tiên, được bao phủ bởi mái tóc vàng dài quá độ. "Trời đất thánh thần ơi," Ngái Ngủ dài giọng khi liếc thấy tôi. "Em không sao chứ Suze?"
Tôi gật đầu một cách mụ mị. "Giúp em đứng dậy với," tôi nói.
Hai người bọn họ xoay xở nhấc những tấm gỗ to nhất ra khỏi người tôi. Rồi Ngái Ngủ bảo tôi quàng tay qua cổ anh ấy, tôi làm theo, trong khi David đỡ lấy eo tôi. Với hai người kéo, tôi thì dùng chân đấy, cuối cùng cũng xoay xở thoát khỏi đống gạch ngói đổ nát.
Chúng tôi đứng trong bóng tối của cái sân khoảng một phút, dựa vào gờ cái bậc trên đó đặt bức tượng không đầu của Junipero Serra. Chúng tôi cứ đứng đó, thở hổn hển và nhìn chằm chằm vào cái đống đổ nát từng là trường học. Ờ, như thế chắc là hơi bị lố quá nhỉ. Phần lớn ngôi trường vẫn còn đó. Thậm chí phần lớn lối đi vẫn còn chưa bị sập. Chỉ có cái chỗ tủ để đồ của Heather và lớp học của thầy Walden là sụp xuống thôi. Cái đống gỗ ngổn ngang đã che giấu gọn ghẽ bằng chứng của những việc tôi làm lúc đêm hôm, trong đó có nến, rõ ràng đã cháy hết. Không có dấu hiệu nào của Heather cả. Màn đêm tĩnh lặng đến hoàn hảo, chỉ trừ có tiếng thở của bọn tôi. Và tiếng bọn dế nữa.
Điều đó khiến cho tôi biết rằng Heather đã đi thật rồi. Bọn dế lại bắt đầu kéo đàn.
"Chúa ơi," Ngái Ngủ lại nói, vẫn còn thở khá mệt nhọc, "em chắc chắn là mình không sao đấy chứ Suze?"
Tôi quay qua nhìn anh ấy. Anh ấy chỉ mặc mỗi chiếc quần jeans và áo khoác kiểu quân đội, quàng quấy quá lên người không. Tôi liếc thấy Ngái Ngủ cũng có cơ bụng sáu múi gần giống như Jesse.
Làm thế nào mà gần ngạt thở đến chết rồi mà chỉ mấy phút sau tôi vẫn còn có thể đứng đó nhìn những thứ kiểu như cơ bụng của ông anh con dượng được nhỉ?
"Vâng," tôi nói, kéo vài sợi tóc cho khỏi vướng mắt. "Em không sao. Có lẽ chỉ hơi trầy vi tróc vảy tí thôi. Nhưng không có cái xương gãy nào hết."
"Có lẽ chị ấy nên đến bệnh viện kiểm tra thôi." Giọng David vẫn còn hơi run. "Anh không nghĩ là chị ấy nên đến bệnh viện kiểm tra sao, Jake?"
"Không," tôi nói. "Không có bệnh viện bệnh viếc gì hết."
"Chị có thể bị chấn động chứ," David nói. "Hay bị nứt sọ chẳng hạn. Có thể chị sẽ rơi vào hôn mê trong khi ngủ và không bao giờ tỉnh lại nữa. Ít nhất thì chị phải đi chụp X-quang đi. Hay là chụp cộng hưởng từ. Chụp cắt lớp thì cũng không đau đớn gì đâu - "
"Không." Tôi dùng hai tay phủi quần và đứng dậy. Cơ thể tôi hơi oải, nhưng còn nguyên vẹn. "Thôi nào. Chuồn khỏi đây thôi trước khi có người đến. Họ ở quanh đây nên có thể đã nghe được rồi cũng nên." Tôi hất đầu về phía toà nhà nơi các linh mục và các bà xơ ở đó. Một vài ô cửa sổ bật đèn sáng. "Em không muốn kéo mọi người vào rắc rối đâu."
"Ờ," Ngái Ngủ nói, đứng dậy. "Ừm, trước khi chuồn ra ngoài thì hẳn em phải nghĩ đến điều đó rồi chứ, hả?"
Bọn tôi ra về theo lối đã đến. Giống tôi, David đã bò bên dưới cánh cổng trước, rồi mở khoá từ bên trong cho Ngái Ngủ vào. Cả bọn chuồn ra khẽ khàng hết sức có thể, lao đến chỗ chiếc Rambler mà Ngái Ngủ đã đỗ trong bóng tối, ngoài tầm chiếc xe cảnh sát. Cái xe cảnh sát vẫn đỗ chỗ đó, chủ nhân của nó hoàn toàn không chú ý gì đến cái điều vừa mới xảy ra chỉ cách đó có vài mét. Dù sao tôi cũng không muốn mạo hiểm bằng cách lẻn qua trước mặt ông ta, lấy lại cái xe đạp đâu nhé. Bọn tôi cứ để nó đấy, hi vọng không ai trông thấy.
Suốt cả quãng đường về nhà, Jake, ông anh mới của tôi, thuyết giáo tôi một bài. Hiển nhiên anh ấy nghĩ rằng việc tôi lẻn đến trường giữa đêm hôm khuya khoắt là một phần của cái chuyện tập toẹ băng đảng gì đó. Tôi không nói đùa với bạn đâu đấy. Anh ấy rõ ràng là rất ghét điều đó. Anh ấy hỏi xem tôi nghĩ cái bọn đó là loại bạn bè kiểu gì khi chúng để mặc tôi chết ngoẻo dưới cái đống gạch ngói đó chứ. Anh ấy nêu ý kiến rằng nếu tôi chán đời hay cần một trò vui gì đó, thì tôi nên đi lướt sóng, và trích dẫn: "Nếu bạn sắp làm cho đầu mình rách da chảy máu, thì đi lướt tí sóng rồi rách đầu vẫn tốt hơn chứ bồ tèo."
Tôi lắng nghe bài thuyết giáo của ông anh một cách ngoan ngoãn hết mức có thể. Dù sao, tôi cũng chả thể nói cho anh ấy cái lý do thật sự vì sao tôi lại đến trường mấy tiếng sau giờ học. Tôi chỉ ngắt lời Jake có đúng một lần trong suốt cái bài thuyết giáo nho nhỏ chống lại vụ tụ tập băng đảng, để hỏi xem làm thế nào anh ấy và David biết được mà đi theo tôi.
"Anh chả biết," Jake nói khi bọn tôi leo lên con đường dốc. "Tất cả những gì anh biết được là, đang kéo bễ khò khò thì đột ngột Dave tìm đến, bảo anh rằng bọn anh phải đi đến trường tìm em. Mà làm sao em biết chị ấy ở đó hả Dave?"
Gương mặt David trông trắng xác một cách khác thường, ngay cả dưới ánh trăng. "Em không biết," nó khẽ khàng đáp. "Em chỉ có cảm giác thế thôi."
Tôi quay qua nhìn nó chằm chằm. Nhưng nó không nhìn tôi.
Thằng bé này, tôi thầm nghĩ. Thằng bé biết đấy.
Nhưng sau đó tôi quá mệt không hỏi han được gì về chuyện đó. Cả bọn chuồn vào nhà, nhẹ cả người vì cái kẻ tỉnh dậy khi bọn tôi vào chỉ là con Max, nó vẫy đuôi và cố liếm bọn tôi khi bọn tôi trở về phòng. Trước khi chui vào phòng mình, tôi liếc qua David có đúng một lần, để xem nó có muốn - hay cần - nói gì với tôi không. Nhưng nó chả nói gì cả. Nó chỉ đi về phòng và đóng cửa lại, thằng bé sợ. Trái tim tôi chùng xuống.
Nhưng chỉ trong một giây thôi. Tôi quá mệt không còn nghĩ được nhiều nhặn gì ngoài cái giường - ngay cả Jesse cũng không. Để sáng mai, tôi tự nhủ khi cởi bỏ bộ quần áo đầy bụi bặm. Mai mình sẽ nói chuyện với anh ấy.
Thế nhưng tôi lại không nói. Khi tỉnh dậy, ánh sáng phía bên ngoài cửa sổ trông thật lạ. Khi tôi ngóc đầu dậy nhìn đồng hồ thì mới hiểu tại sao. Đã 2 giờ chiều rồi. Sương sớm đã tan hết, mặt trời toả nắng chang chang cứ như là tháng Bảy chứ không phải tháng Giêng.
"Ê, đồ ngủ nướng."
Tôi nhìn về phía cửa ra vào. Dượng Andy đang đứng đó, dựa vào cái khung giường, khoanh tay trước ngực. Dượng cười toe toét, thế có nghĩa là tôi không gặp rắc rối gì rồi. Tôi đang làm gì trên giường vào lúc 2 giờ chiều một ngày đi học nhỉ?
"Con đỡ hơn chưa?" Dượng Andy hỏi.
Có cần giả vờ ốm không nhỉ? Ờ, mà giả vờ cũng chả khó lắm. Tôi có cảm giác như ai đó đã đập cả tấn gạch vào đầu mình ấy.
Mà, theo một cách nào đó, thì họ đã làm thế thật.
"Ưm," tôi nói. "Chưa đỡ lắm ạ."
"Dượng sẽ lấy cho con mấy viên aspirin. Chắc là con vẫn còn váng vất hả? Chuyến bay dài chuyển nhà ấy. Sáng nay khi mọi người không tài nào đánh thức nổi con, thì mọi người để con ngủ tiếp. Mẹ con chuyển lời xin lỗi, nhưng mẹ phải đi làm. Mẹ đổ cho dượng chăm con. Hi vọng con không ngại."
Tôi cố ngồi dậy. Thật khó khăn. Mọi cơ bắp trên người tôi có cảm giác như thể tôi bị giã một trận vậy. Tôi gạt vài sợi tóc ra khỏi mắt và chớp mắt nhìn dượng. "Dượng đâu cần phải làm thế," tôi nói. "Ý con là ở nhà chăm con ấy."
Dượng Andy nhún vai. "Có gì to tát đâu. Từ khi con đến dượng hầu như chưa có cơ hội nói chuyện với con, thế nên dượng nghĩ chúng ta nên tranh thủ. Con muốn ăn trưa không?"
Cái lúc dượng ấy nói câu đó, dạ dày tôi gào lên. Tôi đói chết đi được ấy.
Dượng nghe thấy và cười toe. "Không vấn đề. Thay quần áo rồi xuống nhà nhé. Chúng ta ăn trưa ở ngoài. Hôm nay trời đẹp lắm."
Tôi cố gắng lết cái thân xác ra khỏi dường. Tôi mặc bộ đồ ngủ. Tôi không cảm thấy thích thay quần áo cho lắm. Thế là tôi chỉ đi đôi tất, mặc cái áo choàng, đánh răng, và đứng cạnh cái cửa sổ trong khoảng một phút, nhìn ra ngoài trong khi cố gắng gỡ những chỗ tóc rối. Mái vòm đỏ của nhà thờ Trường Truyền Giáo rực lên dưới ánh mặt trời. Đằng sau đó tôi có thể thấy mặt biển đang nhấp nháy. Đứng đây thì chẳng thể nào dám nói rằng đêm qua nó là hiện trường của vô số đổ nát.
Không lâu sau đó thì có một mùi thơm đến phát thèm dậy lên từ trong bếp, mời gọi tôi xuống dưới nhà. Dượng Andy đang làm món sandwich Reuben. Dượng vẫy vẫy tôi ra khỏi căn bếp, đi đến chỗ căn nhà gỗ rộng rãi mà dượng đã xây phía đằng sau ngôi nhà. Mặt trời đang toả nắng chang chang, và tôi nằm duỗi người trên một trong số những chiếc ghế gập trải đệm, vờ như mình là ngôi sao điện ảnh một tí. Rồi dượng Andy đi ra mang theo sandwich và một bình nước chanh, tôi chuyển sang chiếc bàn có một cái ô màu xanh lá cây che phía trên và đánh chén. Đối với một người không phải là dân New York chính cống, dượng Andy quay món Reuben thật đúng điệu.
Và đó chưa phải là tất cả những gì dượng quay đâu nhé. Dượng ấy dành cả nửa giờ liền để quay tôi từ trong ra ngoài... nhưng không phải về chuyện xảy ra đêm qua đâu. Tôi thật ngạc nhiên là Ngái Ngủ và Tiến Sỹ đã kín miệng cơ đấy. Dượng Andy hoàn toàn không biết tí ti gì về chuyện xảy ra hết. Tất cả những gì dượng muốn biết là tôi có thích ngôi trường mới không, tôi có vui không, vân vân và vân vân...
Chỉ trừ có một điều. Dượng ấy có nói với tôi, khi hỏi xem tôi thích California đến mức nào và nó có khác với New York nhiều lắm không - ừ hứ - rằng: "Vậy, dượng đoán là con ngủ tít mít không biết gì về cơn động đất đầu tiên rồi."
Tôi suýt nữa thì phát nghẹn món khoai tây chiên. "Sao cơ ạ?"
"Thì trận động đất đầu tiên ấy. Có một trận vào đêm qua, khoảng 2 giờ sáng. Cũng chẳng to tát lắm, thật đấy - chỉ khoảng 4 độ thôi - nhưng nó đánh thức dượng. Không có thiệt hại gì, trừ có Trường Truyền Giáo, hiển nhiên rồi. Cái lối đi bị sập. Nhưng mà đối với họ thì cũng có gì đáng ngạc nhiên đâu nào. Dượng đã cảnh báo họ về chuyện gỗ ấy hàng mấy năm nay rồi. Tuổi của nó tương đương với tuổi của Trường Truyền Giáo. Tất nhiên là nó không thể đứng vững mãi mãi được."
Tôi nhai một cách cẩn thận hơn. Ái chà. Nếu như tất cả mọi người ở Thung lũng, thậm chí cả ở trên đồi, đều cảm nhận được thì vụ nổ chào từ biệt của Heather hẳn là một cú ra trò đây.
Tôi nhai một cách cẩn thận hơn. Ái chà. Nếu như tất cả mọi người ở Thung lũng, thậm chí cả ở trên đồi, đều cảm nhận được thì vụ nổ chào từ biệt của Heather hẳn là một cú ra trò đây.
Khi tôi vừa mới lên gác, đang ngồi trên chiếc ghế cạnh cửa sổ liếc qua một tờ tạp chí thời trang chán òm, băn khoăn không biến Jesse đã biến đi đâu rồi, và tôi còn phải đợi bao lâu nữa trước khi anh ấy hiện ra thuyết giáo tôi một bài trong vô số bài của anh ấy, và liệu còn có cơ may nào anh ấy gọi tôi là querida nữa không, thì bọn con trai đi học về. Ngu Ngơ bước rầm rầm bỏ qua phòng tôi - cậu ta vẫn còn đổ lỗi cho tôi vì tôi mà cậu ta bị cấm túc - nhưng Ngái Ngủ thì thò đầu vào, nhìn tôi, thấy rằng tôi vẫn ổn, rồi bỏ đi, lắc lắc đầu. Chỉ có David là gõ cửa, khi tôi bảo nó vào đi, thằng bé ngượng ngùng bước vào.
"Ừm," nó nói. "Em mang bài tập về cho chị đây. Thầy Walden đưa cho em để mang về cho chị. Thầy ấy nói rằng thầy hi vọng chị đã khoẻ lên rồi."
"Ô," tôi nói. "Cảm ơn em, David. Em cứ để trên giường được rồi."
David làm như lời tôi bảo, nhưng nó không đi ra. Nó chỉ đứng đó nhìn chằm chằm vào cái cột giường. Tôi đoán là nó muốn nói chuyện, thế nên tôi quyết định để nó nói, bằng cách im lặng không nói gì hết.
"Cee Cee gửi lời chào chị," nó nói. "Và một người khác nữa. Adam McTavish."
"Bọn họ thật tốt bụng," tôi nói. Tôi chờ đợi. David không có vẻ thất vọng.
"Mọi người đều đang bàn tán về chị, chị biết đấy," nó nói.
"Bàn tán về cái gì cơ?"
"Chị biết mà. Trận động đất ấy. Rằng Trường Truyền Giáo hẳn đã phạm phải một lỗi lầm trước kia chưa ai từng nghe nói, bởi vì tâm chấn dường như... dường như nằm ngay cạnh lớp học của thầy Walden."
Tôi nói: "Hả," và lật giở tờ tạp chí.
"Vậy là," David nói. "Chị sẽ không bao giờ nói cho em biết, phải vậy không?"
Tôi không nhìn vào nó. "Nói cho em biết cái gì cơ?"
"Chuyện gì đang diễn ra. Tại sao chị lại đến trường vào giữa đêm hôm khuya khoắt. Làm sao cái lối đi đó lại sập xuống. Bất kỳ điều gì."
"Tốt hơn hết là em không nên biết điều gì cả," tôi nói, giở trang báo. "Hãy tin chị."
"Nhưng chuyện này không dính dáng gì tới... tới cái điều anh Jake đã nói. Dính dáng tới băng đảng ấy. Phải không ạ?"
"Ừ," tôi đáp.
đang toả nắng qua khung cửa sổ, làm cho gương mặt nó trở nên hồng hào. Đứa trẻ này - đứa trẻ có mái tóc đỏ và đôi tai vểnh - đã cứu mạng tôi. Dù sao đi nữa tôi cũng nợ nó một lời giải thích.
"Em thấy nó, chị biết mà," David nói.
"Thấy cái gì?"
"Nó. Con ma ấy." Nó đang nhìn tôi chằm chằm, mặt trắng bệch và chăm chú. Trông nó quá là nghiêm trang đối với một đứa mười hai tuổi.
"Con ma nào?" Tôi hỏi.
"Con ma sống ở đây ấy. Trong căn phòng này này." Nó nhìn quanh, như thể chờ đợi Jesse hiện ra từ một trong những góc của căn phòng tràn ngập ánh nắng của tôi. "Đêm qua nó đến tìm em," nó nói. "Em thề đấy. Nó lay em dậy. Nó kể cho em nghe về chị. Thế nên em mới biết. Thế nên em mới biết chị đang gặp rắc rối."
Tôi há hốc miệng nhìn nó chằm chằm. Jesse ư? Jesse đã nói cho nó ư? Jesse đã đánh thức nó dậy ư?
"Nó chẳng để cho em yên," David nói, giọng run rẩy. "Nó cứ... chạm vào em. Vào vai em. Nó lạnh lẽo và phát sáng. Đó chỉ là một thứ lạnh lẽo, phát sáng, và bên trong đầu em là một giọng nói bảo em rằng em phải đi đến trường và giúp chị. Em không nói dối đâu Suze. Em thề là chuyện đó có thật mà."
"Chị biết, David ạ," tôi nói, gấp tờ tạp chí lại. "Chị tin em mà."
Trước đó nó đã mở miệng định thề thốt rằng chuyện đó có thật thêm một lần nữa, nhưng khi tôi nói rằng tôi tin nó, thằng bé ngậm ngay miệng vào. Nó chỉ mở miệng lần nữa để nói giọng băn khoăn: "Chị tin thật chứ?"
"Thật," tôi nói. "Đêm qua chị không có cơ hội để nói, nên giờ chị sẽ nói. Cảm ơn em, David. Em và anh Jake đã cứu mạng chị."
Thằng bé đang run rẩy. Nó phải ngồi xuống giường tôi, không thì ngã lăn ra mất.
"Vậy là..." nó nói. "Vậy là nó có thật. Có đúng là... con ma không?"
"Đúng vậy."
Nó không thích điều đó. "Thế tại sao chị lại đến trường?"
"Chuyện dài lắm," tôi nói. "Nhưng chị hứa với em, chuyện đó không liên quan gì đến băng đảng nào cả."
Nó chớp mắt nhìn tôi. "Thế có liên quan tới... con ma không?"
"Không phải con ma tới tìm em đâu. Nhưng đúng, chuyện có liên quan tới một con ma."
Môi David mấp máy, nhưng tôi không nghĩ rằng nó nhận biết được bản thân mình đang nói. Điều nó thốt ra là một câu đầy kinh ngạc: "Có hơn một con ma cơ ạ?"
"Ơ, rất nhiều là đằng khác," tôi đáp.
Nó lại nhìn tôi chằm chằm hơn nữa. "Và chị... chị có thể nhìn thấy chúng sao?"
"David này," tôi nói. "Đây không phải là điều mà chị có thể thoải mái thảo luận cho lắm - "
"Chị đã nhìn thấy con ma đêm qua chưa? Cái con đánh thức em dậy ấy?"
"Có, David ạ. Chị đã gặp anh ta rồi."
"Chị có biết anh ta là ai không? Ý em là sao anh ta lại chết ấy?"
Tôi lắc đầu. "Không. Em còn nhớ không? Em đang tìm hiểu giúp chị mà."
Mặt David tươi tắn lên. "Ơ, phải rồi! Em quên béng mất. Hôm qua em xem được mấy quyển sách - chị chờ tí nhé. Đừng đi đâu đấy."
Thằng bé chạy ra khỏi phòng, tất cả cơn sốc mới đây đã biến mất. Tôi ở nguyên chỗ cũ, chính xác như nó bảo. Tôi băn khoăn không biết Jesse có đâu đó gần đây, đang lắng nghe hay không. Tôi đoán nếu anh ấy có ở đây thì đáng đời lắm.
David quay lại tức khắc, mang theo một đống sách to quá cỡ phủ đầy những bụi. Trông chúng cực kỳ xưa cũ, và khi nó ngồi xuống cạnh tôi, hăm hở mở chúng ra, tôi thấy rằng những cuốn sách đúng là cũ thật, giống như vẻ bề ngoài của chúng. Không có cuốn nào xuất bản sau năm 1910 hết. Cuốn cũ nhất được xuất bản vào năm 1849.
"Chị nhìn này," David nói, lật giở một cuốn to, bọc da, có tên là Vùng Monterey Của Tôi. Vùng Monterey Của Tôi được viết bởi Đại tá Harold Clemmings. Ông đại tá này có lối kể chuyện thật khô khan, nhưng còn có những bức ảnh để xem, chúng cũng có ích, cho dù là ảnh đen trắng.
"Chị nhìn này," David lại nói, quay qua bản sao của bức ảnh ngôi nhà chúng tôi đang ở. Chỉ có ngôi nhà là trông rất khác, không có hành lang cũng như chỗ đỗ xe. Hơn nữa, những cái cây quanh đó lại nhỏ hơn nhiều. "Nhìn này, đây là ngôi nhà hồi còn là khách sạn đấy. Hay là nhà trọ như hồi đó người ta gọi nó thế. Ở đây có viết rằng ngôi nhà này có tiếng tăm khá là tệ. Rất nhiều người bị mưu sát ở đây. Đại tá Clemmings đi sâu vào kể chi tiết về tất cả bọn họ đấy. Chị có nghi là con ma đến tìm em đêm qua là một trong số người đó không? Ý em là một trong số những người chết ở đây ấy?"
"Ờ," tôi nói. "Có thể lắm."
David bắt đầu đọc to lên - nhanh và chính xác, không vấp váp khi gặp những từ ngữ dài dòng lỗi thời - những câu chuyện về những người đã chết ở cái nơi mà Đại tá Clemmings gọi là Ngôi nhà trên Đồi.
Tuy vậy, không có ai tên là Jesse hết. Thậm chí không có ai trong số họ giống anh ấy, dù một tí tẹo. Khi David đọc xong, nó nhìn tôi đầy hi vọng.
"Có thể con ma là người Trung Quốc làm nghề giặt giũ," nó nói. "Cái người đã bị bắn chết vì anh ta không giặt sạch thật kỹ những cái áo của công tử bột đó chăng."
Tôi lắc đầu. "Không. Con ma của chúng ta không phải người Trung Quốc."
"Ô." David lại chăm chú vào cuốn sách. "Thế còn người này? Cái người bị giết bởi những nô lệ của ông ta ấy?"
"Chị không nghĩ vậy," tôi đáp. "Ông này cao có hơn mét rưỡi thôi."
"Ờ, thế còn người này? Cái người Hà Lan bị bắt quả tang chơi bài gian lận và bị bắn chết?"
"Anh ta không phải người Hà Lan," tôi nói, kèm một tiếng thở dài.
David cắn môi. "Ờ, thế anh ta là người nước nào? Con ma ấy?"
Tôi lắc đầu. "Chị không biết. Ít nhất là có mang dòng máu Tây Ban Nha. Và..." Tôi không muốn nói đến điều đó ngay tại đây, trong căn phòng của tôi, nơi mà Jesse có thể nghe trộm. Bạn biết đấy, về đôi mắt lóng lánh, những ngón tay dài màu nâu, và tất tần tật.
Ý tôi muốn nói là, tôi chả muốn anh ta nghĩ tôi thích anh ta hay gì đó đâu đấy.
Rồi tôi chợt nhớ ra chiếc khăn tay. Nó đã biến mất khi tôi thức dậy vào buổi sáng hôm sau, sau khi tôi giặt sạch vết máu của mình trên đó, nhưng tôi vẫn còn nhớ những chữ cái đầu tiên. MDS. Tôi nói cho David. "Những chữ cái đó có gợi lên cho em điều gì không?"
Trông nó đăm chiêu trong khoảng một phút. Rồi nó gập cuốn sách của Đại tá Clemmings lại, cầm lên một cuốn khác. Cuốn này còn cũ hơn và bụi hơn nữa. Cũ đến nỗi cái tựa đã bị tróc ra khỏi gáy. Nhưng khi David mở ra, tôi trông thấy trang bìa thì cuốn sách tên là Cuộc sống ở Bắc California, 1800 - 1850.
David xem lướt phần phụ lục ở đằng sau, rồi kêu lên: "À há." "À há cái gì?" Tôi hỏi. "À há, em đã nghĩ thế mà," David đáp. Nó giở về phía cuối sách. "Đây," nó nói. "Em biết mà. Có một bức ảnh của cô ấy đây." Nó đưa cho tôi cuốn sách, và tôi trông thấy cái trang sách được phủ một tờ khăn giấy bên trên. "Gì thế này?" Tôi hỏi. "Có cả khăn giấy trong quyển sách." "Không phải khăn giấy đâu. Đó là giấy lụa đấy. Người ta từng sử dụng loại đó phủ lên những bức ảnh trong sách để bảo vệ chúng. Chị nhấc lên đi."
Tôi nhấc tờ giấy lụa lên. Bên dưới đó là một bản copy bức tranh vẽ bằng mực đen trắng trên loại giấy bóng. Bức tranh là chân dung của một người phụ nữ. Bên dưới bức chân dung đề những chữ: Maria de Silva Diego, 1830-1916.
Miệng tôi há hốc ra. MDS! Maria de Silva!
Cô ta trông giống như loại người sử dụng kiểu khăn tay đó. Cô ta mặc đồ màu trắng xếp nếp - hay ít nhất thì trông nó có vẻ như màu trắng trong bức ảnh đen trắng - với mái tóc đen óng loăn xoăn hai bên, và một món đồ trang sức trông to, cũ kỹ và đắt tiền treo lủng lẳng dưới sợi dây chuyền vàng đeo quanh chiếc cổ dài thon. Một người phụ nữ đẹp, trông đầy kiêu hãnh, cái nhìn của cô ta toát ra từ bức tranh với một vẻ bạn chỉ có thể gọi là... ờ... vẻ khinh người mà thôi.
Tôi nhìn David. "Cô ta là ai thế?" Tôi hỏi.
"À, chỉ là cô gái nổi tiếng nhất California vào quãng thời gian ngôi nhà này được xây dựng." David lấy lại cuốn sách từ tôi, giở ra. "Cha cô ta, Ricardo de Silva, hồi đó sở hữu hầu hết vùng Salinas. Cô ta là con gái độc nhất, và ông ta dành cho con gái một đống của hồi môn khá lớn. Tuy thế, đấy chưa phải là lý do người ta muốn cưới cô ta. Ờ, không phải là lý do duy nhất. Hồi đó, người ta coi những cô gái trông như thế này là xinh đẹp."
Tôi nói: "Cô ta rất đẹp."
David liếc tôi với nụ cười mủm mỉm trêu chọc. "Vâng," nó nói. "Phải lắm."
"Không. Cô ta đẹp thật mà."
David thấy tôi có vẻ nghiêm túc, và nhún vai. "Ừm, sao cũng được. Cha cô ta muốn cô ta kết hôn với người chủ trại giàu có này - một người anh họ của cô ta, yêu cô ta điên cuồng - nhưng cô ta lại mê người này, tên là Diego." Nó chúi vào cuốn sách. "Felix Diego. Tên này không hay ho gì đây. Hắn ta là một nô lệ bỏ trốn. Hay ít nhất thì hắn cũng kiếm sống bằng việc đó trước khi đến California rồi giàu lên nhanh chóng nhờ các mỏ vàng. Cha của Maria, ông ta không chấp nhận nô lệ cũng như dân đào vàng. Thế nên Maria và cha cô ta có một cuộc cãi vã ầm ỹ về chuyện này - ý em là chuyện cô ta sẽ lấy ai, người anh họ hay là tên nô lệ bỏ trốn - đến phút cuối, cha cô ta nói rằng ông ta sẽ cắt hết cái đống của hồi môn đó nếu cô ta không lấy người anh họ. Điều này khiến cho cô ta im miệng khá nhanh bởi lẽ cô ta là người rất mê tiền mà. Cô ta có hình như đâu sáu chục bộ váy áo trong khi đa phần những người phụ nữ chỉ có hai bộ, một bộ để làm việc, một để đi lễ nhà thờ - "
"Rồi chuyện gì xảy ra?" Tôi ngắt lời. Tôi đâu thèm quan tâm một người phụ nữ sở hữu bao nhiêu bộ váy áo chứ. Tôi muốn biết chuyện Jesse ở đâu ra cơ.
"Ơ." David xem xét cuốn sách. "Điều nực cười ở đây là, rốt cuộc, Maria lại giành phần thắng đấy."
"Sao lại thế?"
"Người anh họ không bao giờ xuất hiện ở lễ cưới."
Tôi chớp mắt nhìn nó. "Không bao giờ xuất hiện ư? Ý em là sao, anh ta không bao giờ đến à?"
"Thế đấy. Anh ta không bao giờ xuất hiện. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với anh ta hết. Anh ta rời khỏi trang trại của mình vài ngày trước lễ cưới, chị biết đấy, để có thể đến đó đúng giờ hay sao ấy, nhưng rồi chẳng ai còn nghe thấy tin gì của anh ta cả. Không bao giờ. Hết chuyện."
"Và..." Tôi đã biết câu trả lời, nhưng dù sao vẫn phải hỏi. "Và chuyện gì xảy ra với Maria?"
"À, cô ta kết hôn với tên nô lệ bỏ trốn kiêm kẻ đào vàng. Ý em là, sau khi bọn họ đã chờ đợi một thời gian cho phải phép, thế thôi. Ngày trước cũng có những điều luật về những chuyện kiểu này. Cha cô ta đã vô cùng thất vọng, chị biết đấy, vì hoá ra ông anh họ đó lại là người bội tín, đến nỗi mà cuối cùng thì ông ta đành bảo với Maria rằng cô ta có thể làm bất cứ việc gì cô ta thích, cô ta sẽ bị nguyền rủa. Thế là cô ta làm thôi. Nhưng mà không bị nguyền rủa. Cô ta và tên nô lệ bỏ trốn đó sinh được mười một đứa con và thừa kế tài sản của cha cô ta sau khi ông ta qua đời, chăm lo cái gia sản đó khá tốt - "
Tôi giơ một bàn tay lên. "Chờ đã. Tên của người anh họ đó là gì?"
David xem xét cuốn sách. "Hector."
"Hector ư?"
"Vâng." David lại cúi xuống. "Hector de Silva. Nhưng mẹ anh ta gọi anh ta là Jesse."
Khi ngẩng lên, nó hẳn phải thấy trên mặt tôi có biểu hiện gì đó, vì nó nói, giọng nhỏ rí: "Đó có phải con ma của chúng ta không?"
"Đó," tôi nói nhỏ, "chính là con ma của chúng ta đấy."